Tạo sức bật cho doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn mới

( TBTCO ) – (TBTCVN) – Ngày 19/10, trong khuôn khổ Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) đã tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Nâng cao năng lực của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam trong giai đoạn mới”.

Doanh nghiệp tư nhân vẫn “chậm lớn”

Theo nhóm nghiên cứu của CIEM, ở Việt Nam, chủ trương phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã tạo dư địa, không gian và cơ hội kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân đầu tư nâng cao năng lực. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới đã tăng đáng kể, đặc biệt trong giai đoạn 2015 – 2020 có hơn 735.000 doanh nghiệp thành lập mới (trung bình 122.500 doanh nghiệp/năm). Trong 9 tháng năm 2021 mặc dù ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 nhưng vẫn có 85.483 doanh nghiệp thành lập mới.

Tạo sức bật cho doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn mới
Năng lực của khu vực kinh tế tư nhân đã được cải thiện trong thời gian qua.

Năng lực của khu vực kinh tế tài chính tư nhân đã được cải tổ trong thời hạn qua. Khu vực kinh tế tài chính tư nhân có số lượng chủ thể và quy mô ngày càng lớn, số lượng doanh nghiệp khu vực tư nhân trong TOP 10, TOP 50, TOP 100 doanh nghiệp lớn nhất Nước Ta tăng qua những năm ; trình độ công nghệ tiên tiến, trình độ tổ chức triển khai quản trị được cải tổ. Quy mô vốn sản xuất của doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh, từ 6.875 nghìn tỷ đồng ( 2011 ) lên 24.024,5 nghìn tỷ đồng ( 2019 ), gấp gần 3,5 lần ( trong khi doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng hơn 2 lần và doanh nghiệp FDI tăng gần 3,4 lần ). Tuy nhiên, TS. Nguyễn Thị Luyện, thành viên nhóm điều tra và nghiên cứu của CIEM cũng nêu rõ năng lượng của khu vực kinh tế tài chính tư nhân còn nhiều hạn chế. Về số lượng thì chưa đạt tiềm năng đề ra, tỷ lệ doanh nghiệp xây dựng mới khá thấp. Mật độ doanh nghiệp đang hoạt động giải trí là 120 người dân / doanh nghiệp ( năm 2020 ), thấp hơn mức trung bình ASEAN là 80-100 người dân / doanh nghiệp ; những nước Nhật Bản, Mỹ, EU là 10-12 người dân / doanh nghiệp. Về quy mô, dù tăng nhưng quy mô vốn sản xuất kinh doanh thương mại, giá trị gia tài cố định và thắt chặt và góp vốn đầu tư kinh tế tài chính trung bình doanh nghiệp hàng năm khá thấp. Đóng góp vào GDP đa phần từ kinh tế tài chính thành viên / hộ kinh doanh thương mại, khối kinh tế tài chính tư nhân chính thức ( doanh nghiệp tư nhân ) góp phần chưa đến 10 % GDP. Nộp ngân sách còn hạn chế, đặc biệt quan trọng là khối hộ kinh doanh thương mại ( chưa đến 2 % ). Đặc biệt trong đại dịch vừa mới qua, năng lượng sản xuất, năng lượng kinh tế tài chính của hầu hết những chủ thể doanh nghiệp tư nhân bị bào mòn, mất cân đối dòng tiền nghiêm trọng. Hiệu quả hoạt động giải trí của doanh nghiệp giảm rõ ràng.

Góp ý về những nhận định trong báo cáo, PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, những khó khăn của khu vực kinh tế tư nhân không phải chỉ do Covid-19 mà chủ yếu vẫn là do quản trị còn yếu kém, thiếu môi trường để phát triển, vẫn có sự phân biệt đối xử giữa khu vực kinh tế tư nhân với các thành phần. “Sự ‘chậm lớn’ của khu vực kinh tế tư nhân cần được đặt trong sự so sánh với khu vực FDI. Vẫn có sự thiếu nâng đỡ đúng lúc, đúng mức so với khu vực FDI tận dụng được nhiều ưu đãi”, ông Trần Đình Thiên nói.

Cùng với đó, cấu trúc của khu vực kinh tế tài chính tư nhân lại không vững chắc khi có quá nhiều doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, nhưng có rất ít doanh nghiệp cỡ vừa. Cấu trúc như vậy cho thấy doanh nghiệp nhỏ không lớn được, hay không muốn lớn, trong khi thiếu đội ngũ kế cận, thừa kế để phát triển thành nhóm doanh nghiệp tư nhân lớn.

Xử lý tận gốc những vấn đề cũ để tạo sức bật mới

Để nâng cao năng lượng của khu vực kinh tế tài chính tư nhân Nước Ta, nhóm điều tra và nghiên cứu của CIEM yêu cầu giải pháp thời gian ngắn trước mắt là triển khai có hiệu suất cao những chủ trương tương hỗ người sử dụng lao động, người lao động bị tác động ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 ; triển khai hiệu suất cao những nghị quyết đã phát hành ; kiểm soát và điều chỉnh, sửa đổi những điều kiện kèm theo, thủ tục để tăng năng lực tiếp cận ; liên tục đối thoại với doanh nghiệp, người lao động để chớp lấy, tháo gỡ và tương hỗ kịp thời ; biến hóa phương pháp tiếp cận những gói tương hỗ, tăng nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong khâu ĐK, đánh giá và thẩm định và triển khai tương hỗ.

Đồng thời, các cấp, các địa phương cần thực hiện nhất quán, đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch. Hỗ trợ doanh nghiệp giữ chân người lao động; đưa người lao động quay trở lại; ổn định tâm lý người lao động; tháo gỡ khó khăn về dòng tiền và có chính sách tháo gỡ theo đặc thù ngành.

Về dài hạn, liên tục hoàn thành xong chính sách, chủ trương kiến thiết xây dựng thiên nhiên và môi trường kinh doanh thương mại thuận tiện, lôi cuốn góp vốn đầu tư tư nhân, thôi thúc những chủ thể kinh tế tài chính tư nhân phát triển. Tiếp tục giảm rào cản gia nhập thị trường : Cắt giảm điều kiện kèm theo kinh doanh thương mại, giảm thiểu thủ tục gia nhập thị trường ; tăng cường hiệu suất cao phối hợp, nghĩa vụ và trách nhiệm báo cáo giải trình giữa những cơ quan tương quan, … Cùng với đó, bảo vệ quyền tự do kinh doanh thương mại, bảo đảm an toàn kinh doanh thương mại. Cải cách thể chế bảo vệ quyền sở hữu, quyền gia tài. Môi trường kinh doanh thương mại thuận tiện, bình đẳng giữa những hình thức pháp lý. Cải cách thủ tục hành chính, công khai minh bạch, minh bạch, nghĩa vụ và trách nhiệm báo cáo giải trình. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, giảm ngân sách tuân thủ, ngân sách không chính thức. Tạo bình đẳng trong tiếp cận những nguồn lực, đặc biệt quan trọng đất đai, vốn. Chú trọng phát triển những doanh nghiệp quy mô vừa và lớn, hình thành 1 số ít tập đoàn lớn kinh tế tài chính tư nhân. Thúc đẩy những doanh nghiệp link, liên kết. Tiếp tục cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước và lôi cuốn FDI có lựa chọn. Theo PGS.TS Lê Xuân Bá, những giải pháp này không hề mới, đã được nhắc đi nhắc lại hàng chục năm nay nhưng vẫn chưa triển khai được. Tuy vậy, trong toàn cảnh dịch bệnh tác động ảnh hưởng nặng nề vừa mới qua là thời cơ quan trọng để tất cả chúng ta buộc phải nhìn lại, phải đổi khác, giải quyết và xử lý tận gốc những yếu tố sống sót lâu nay. Từ đó, doanh nghiệp tư nhân có thời cơ vươn lên, mang lại sức bật can đảm và mạnh mẽ cho nền kinh tế tài chính. Tuy nhiên, ông cũng quan tâm nên phân biệt rõ những việc gì Nhà nước cần tương hỗ, nên tương hỗ, việc gì nên để doanh nghiệp tư nhân tự lực, thị trường điều hướng, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại.

Năm 2019, quy mô vốn sản xuất kinh doanh trung bình một doanh nghiệp khu vực tư nhân là 37,37 tỷ đồng, bằng 0,84% quy mô vốn trung bình của một doanh nghiệp nhà nước và bằng 9,46% quy mô vốn trung bình của một doanh nghiệp FDI. Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn trung bình của một doanh nghiệp khu vực tư nhân là 13 tỷ đồng, bằng 0,83% của doanh nghiệp nhà nước và bằng 7,21% của doanh nghiệp FDI.