Phạm Tuân – Wikipedia tiếng Việt

Phạm Tuân (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947) là phi công, phi hành gia người Việt, tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là người đầu tiên của Việt Nam và châu Á bay lên vũ trụ vào năm 1980 trong chương trình Interkosmos của Liên Xô.

Phạm Tuân sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947 tại Quốc Tuấn, Kiến Xương, Tỉnh Thái Bình. Ông đi bộ đội, được tuyển vào binh chủng Không quân Nhân dân Việt Nam năm 1965, tốt nghiệp Trường phi công quân sự chiến lược ở Liên Xô năm 1967 và trở thành sĩ quan lái máy bay chiến đấu của Trung đoàn 921 Sao Đỏ, tham gia chiến đấu bảo vệ vùng trời Miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Ông là đảng viên của đảng Lao động Việt Nam trong năm này và chính thức là vào năm 1968. Giữa năm 1972, ông là một trong 12 phi công được chọn để giảng dạy lái tiêm kích bay đêm, sẵn sàng chuẩn bị cho việc bắn hạ máy bay B-52 ( tiêm kích bay đêm nhu yếu kỹ thuật cao hơn nhiều so với lái tiêm kích ban ngày ) .
Vào đêm 27 tháng 12 năm 1972, theo tài liệu lịch sử dân tộc không chính thức của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông bắn rơi một máy bay B-52 của Mỹ, trở thành người tiên phong bắn hạ được loại máy bay này từ trên không và trở lại bảo đảm an toàn, nếu không kể một phi công khác tên là Vũ Đình Rạng đã bắn trúng máy bay B-52 của không quân Mỹ vào ngày 20/11/1971 ( tuy nhiên Vũ Đình Rạng chỉ phóng 1 tên lửa nên chiếc B-52 không rơi ngay tại chỗ mà chỉ bị hỏng nặng và vẫn cố hạ cánh được xuống trường bay ), nhưng vì hỏng quá nặng nên không sửa được và đã bị tháo dỡ .

Tài liệu này nói rằng, chiếc MiG-21FM của Phạm Tuân cất cánh hồi 22 giờ 16 phút đêm 27 tháng 12 năm 1972 từ sân bay dã chiến Yên Bái, theo chiến thuật “đi thấp kéo cao” nhằm tránh radar của máy bay địch. Sau khi dẫn đường mặt đất thông báo cách phi đội địch 8–9 km, Phạm Tuân kéo cao rồi tăng tốc máy bay, dùng tốc độ cao để bất ngờ bay vọt qua hai tốp F-4 hộ tống, khiến những chiếc F-4 không kịp phản ứng. Sau khi vọt qua đội F-4 hộ tống, ông tiếp cận hai chiếc B-52, khi còn cách B-52 khoảng 4 km, dẫn đường mặt đất ra lệnh bắn, nhưng Phạm Tuân chờ thêm mấy giây để tiếp cận gần hơn rồi mới bắn[1]. Chiếc MiG-21 cũng tắt radar và các thiết bị liên lạc để B-52 không phát hiện ra là đang bị áp sát. Ông bắn rơi một chiếc trên vùng trời phía tây Hà Nội bằng 2 quả tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2, rồi trở về hạ cánh xuống sân bay Yên Bái.[2].

Phạm Tuân kể rằng : Do B-52 trang bị nhiều mồi nhiệt làm nhiễu đầu dò tên lửa nên ông đã nỗ lực áp sát B-52 ở cự ly 2 – 3 km rồi mới phóng tên lửa ( dù tầm bắn của tên lửa là 8 km ), ở cự ly này tên lửa chỉ mất 2-3 giây để tới tiềm năng nên chiếc B-52 sẽ không kịp thả mồi nhiễu. Rút kinh nghiệm tay nghề từ vụ của Vũ Đình Rạng ( chỉ phóng 1 quả tên lửa thì không đủ để hạ tại chỗ B-52 ) nên ông đã phóng liền cả hai tên lửa vào tiềm năng, không giữ lại tên lửa dự trữ. Sau khi bắn, Phạm Tuân tụt giảm, kéo máy bay lên cao và lật ngửa máy bay để thoát ly thì nhìn thấy chiếc B-52 nổ, sau đó máy bay bay lao vượt qua phía trên điểm nổ. Tuy nhiên do động tác kéo cao-thoát ly cấp tốc này nên máy ảnh phía mũi chiếc MiG-21 đã không hề chụp lại khoảnh khắc đó làm tư liệu .Một số nguồn tài liệu Hoa Kỳ cho rằng tên lửa của ông đã bắn trượt, chiếc B-52 đã trúng tên lửa SAM-2 rồi nổ trên không trung, khiến Phạm Tuân nghĩ rằng tên lửa của ông đã tàn phá tiềm năng. [ 3 ] Nhưng nếu dưới góc nhìn kỹ thuật nghiên cứu và phân tích, điều này là rất khó xảy ra. Thời gian từ khi phóng tên lửa tới khi thoát ly của Phạm Tuân chỉ lê dài 4-5 giây. Trong khoảng chừng thời hạn chỉ tích tắc đó, rất khó có chuyện trùng hợp tới mức chiếc B-52 vừa thoát khỏi tên lửa từ MiG lại bị trúng ngay SAM-2 từ mặt đất phóng lên .

Với chiến công này, ngay sáng hôm sau (ngày 28/12) ông đã được đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khen. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 3 tháng 9 (1973), khi đó ông mang quân hàm Thượng úy, biên đội trưởng thuộc Đại đội 5, trung đoàn 921, Sư đoàn Không quân 371. Phạm Tuân chia sẻ, chiến công của ông có “80% là may mắn”, nhưng may mắn ở đây là có thời cơ, và phải biết chớp được thời cơ đó thì mới làm nên chuyện. Ông cho biết: “Trận ấy không thực sự phức tạp. Nhưng thành quả đó có được là do chúng ta đã từng đổ xương máu, đổ mồ hôi cho những trận chiến đấu trước”.

Bay vào vũ trụ[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1977, Phạm Tuân được cử đi học tại Học viện Không quân Gagarin ( Liên Xô ), năm sau chuyển loại sang bay vũ trụ. Phạm Tuân được chọn vào đội bay quốc tế thứ 6 trong chương trình Intercosmos của Liên Xô ngày 1 tháng 4 năm 1979. Vị trí của ông khởi đầu thuộc về phi công Nguyễn Văn Cốc, nhưng ông Cốc về sau bị loại vì không vượt qua bài kiểm tra thể lực. Cùng được chọn với Phạm Tuân còn có phi công dự bị Bùi Thanh Liêm, người sẽ thế chỗ Phạm Tuân nếu có sự cố giật mình .Phạm Tuân, cùng với nhà du hành vũ trụ Xô viết Viktor Vasilyevich Gorbatko được phóng vào khoảng trống từ trường bay vũ trụ Baikonur trên tàu Soyuz 37 vào ngày 23 tháng 7 năm 1980, tức ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Thân, và trở về Trái Đất ngày 31 tháng 7 trên tàu Soyuz 36. Họ thực thi trách nhiệm trên trạm khoảng trống Salyut 6 cùng với hai nhà du hành vũ trụ Xô viết khác .
Phạm Tuân cùng với nhà du hành vũ trụ Xô viết Viktor Vassilyevich Gorbatko tại Trung tâm văn hóa Nga ở TP. Hà Nội tối ngày 22-7-2015

Trong toàn bộ thời gian trên quỹ đạo, Phạm Tuân đã tiến hành các thí nghiệm khoa học về hòa tan các mẫu khoáng chất trong tình trạng không trọng lực. Ông cũng tiến hành các thí nghiệm khoa học cây trồng trên bèo hoa dâu. Phạm Tuân cũng chụp ảnh Việt Nam từ quỹ đạo Trái Đất. Phạm Tuân ở trong không gian trong vòng 7 ngày, 20 giờ và 42 phút. Ông đã thực hiện tổng cộng 142 vòng quỹ đạo quanh Trái Đất.

Phạm Tuân kể, nhiều người đồn thổi ông chỉ “đi ké” nhà du hành vũ trụ Gorbatko chứ không có vai trò gì. Phạm Tuân khẳng định lại: “Tôi cho rằng những người đó không hiểu gì về chuyến bay vũ trụ. Con tàu vũ trụ đòi hỏi phải có hai người điều khiển. Gorbatko là người lái chính, điều khiển con tàu. Còn tôi là lái phụ, phụ trách các thông số kỹ thuật, bảng điều khiển. Việc phối hợp lái chính-lái phụ phải ăn khớp, không thể có chuyện người này điều khiển còn người kia chỉ ngồi nhìn”. Ông cũng bị đàm tiếu về việc mang bèo hoa dâu lên vũ trụ, cho rằng ông “thiên vị” quê nhà Thái Bình chuyên “băm bèo cho lợn ăn”. Phạm Tuân cho biết: Chuyện mang bèo đi là do đội ngũ các nhà khoa học của ta và bạn quyết định, chứ ông không thể thích mang gì thì mang. Bèo hoa dâu dễ sinh sôi nảy nở, hút khí cacbonic, sản sinh ra oxy. Trên vũ trụ lại có rất nhiều tia nhiễm xạ có tác động lên con người, lên sinh vật tạo nên sự đột biến sinh học, và mang bèo hoa dâu lên là để phục vụ mục đích nghiên cứu này.[4]

Chiếc máy bay MIG21MF mang số hiệu 5121 mà Phạm Tuân đã điều khiển và tinh chỉnh và bắn rơi một máy bay B52 vào ngày 27/12/1972 Phạm Tuân năm 1981 ( lúc đó mang quân hàm Thượng tá ) Một con tem Liên Xô năm 1980 in hình 2 phi công vũ trụ Viktor Vasilyevich Gorbatko và Phạm Tuân Thượng tá Phạm Tuân cùng với Thượng tá, nhà du hành vũ trụ Viktor Gorbatko năm 1981

Trở thành chỉ huy chỉ huy hạng sang[sửa|sửa mã nguồn]

Ông có vợ là thượng tá bác sĩ quân y (đã nghỉ hưu) Trần Thị Phương Tiến và hai con Phạm Hằng Thu, Phạm Anh Tuấn.[5]

Ngày 1 tháng 1 năm 2008, ông nghỉ hưu theo quyết định hành động của nhà nước. Ông hiện sống ở Thành Phố Hà Nội .
Bo bo còn phải độn mì ,Mi lên vũ trụ làm gì hả Tuân ? [ 6 ]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]