Bếp Hoàng Cầm – Wikipedia tiếng Việt

Bài này viết về một loại bếp. Đối với Hoàng Cầm, xem Hoàng Cầm ( khuynh hướng )

Bếp Hoàng Cầm ra đời từ chiến dịch Hòa Bình (1951-1952) và rất phổ biến trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là một loại bếp dã chiến, có công dụng làm tan loãng khói bếp tỏa ra khi nấu ăn nhằm tránh bị máy bay phát hiện từ trên cao, cũng như ở gần. Bếp mang tên người chế tạo ra nó, anh hùng nuôi quân Hoàng Cầm. Ông nguyên là tiểu đội trưởng nuôi quân của Đội trưởng Đội điều trị 8, Sư đoàn 308 Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Sau này trong Kháng chiến chống Mỹ, do sự hoạt động giải trí ráo riết của Không quân Mỹ bếp Hoàng Cầm được vận dụng đại trà phổ thông và bắt buộc trong những đơn vị chức năng Quân đội Nhân dân Nước Ta và Quân Giải phóng miền Nam Nước Ta khi hành quân tác chiến trên những mặt trận. Khi một đơn vị chức năng dừng lại đứng chân trên địa phận mới việc làm thứ nhất là phải đào hầm, công sự mà trong đó bộ phận hậu cần cấp dưỡng phải đào bếp Hoàng Cầm .

Bếp có nhiều đường rãnh để thoát khói, nối liền với lò bếp, bên trên rãnh đặt những cành cây và phủ một lớp đất mỏng được tưới nước để giữ độ ẩm. Khói từ trong lò bếp bốc lên qua các đường rãnh chỉ còn là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Do đó, có thể nấu bếp ban ngày, ngay cả khi máy bay trinh sát của đối phương bay trên đầu. Yêu cầu bí mật đã được đề ra như một khẩu hiệu một thời máu lửa: “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, đã được thực hiện phần nào với sự hỗ trợ của bếp Hoàng Cầm.

Bếp Hoàng Cầm trong văn thơ[sửa|sửa mã nguồn]

Hình ảnh bếp Hoàng Cầm đã xuất hiện trong thơ ca kháng chiến, mà nổi tiếng nhất là trong thơ Phạm Tiến Duật. Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính nói về bộ đội những năm tháng chống Mỹ, Phạm Tiến Duật có viết:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy…” “Bếp Hoàng Cầm ta sưởi ấm khắp nơi nơi…” (Nổi lửa lên em)

Hoàn cảnh sinh ra[sửa|sửa mã nguồn]

Khi đơn vị chức năng tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hòa Bình năm 1952, được tận mắt tận mắt chứng kiến cảnh đồng đội bị thương vong nhiều, sức khỏe thể chất giảm sút do máy bay địch oanh kích và điều kiện kèm theo ẩm thực ăn uống không bảo vệ. Hoàng Cầm nhận ra cuộc chiến tranh ngày càng quyết liệt. Bộ đội ta chiến đấu, quyết tử không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân địch mà quyết tử, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, hoạt động và sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn vì đêm hôm thấy lửa ban ngày thấy khói. Rất nhiều thương vong của bộ đội xuất phát từ việc ” khói bốc lên giữa rừng “, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị chức năng khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn đêm hôm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai ương. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn đêm hôm, ban ngày cơm nguội lạnh, bộ đội ăn không bảo vệ sức khoẻ. Hoàng Cầm đã trăn trở ngày đêm tâm lý, mình phải làm một cái gì đó giúp cho đồng đội giảm bớt thương vong. Một buổi sáng dạo bên bờ suối, nhìn làn khói lượn lờ quanh mái bếp, Hoàng Cầm chợt nảy ra sáng tạo độc đáo làm một kiểu bếp hoàn toàn có thể nấu nướng mọi thứ ban ngày mà không sợ máy bay địch phát hiện. Sau nhiều ngày miệt mài nghiên cứu và điều tra, vẽ sơ đồ 1 số ít kiểu bếp, và nhiều lần làm thử nhiệm. Hoàng Cầm đào hàng chục cái bếp khác nhau, với những kiểu bếp khoét sâu vào trong lòng đất có nhiều nhánh dẫn khói giống như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp, chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói vẫn phảng phất bay lên. Không nản chí Hoàng cầm lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào những đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi. Trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ, vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn. Cuối cùng, Hoàng Cầm đã tạo ra một kiểu bếp như ý, bếp lò khoét vào sườn đồi hoặc đào sâu xuống với những đường rãnh giống như râu mực từ bếp lò bò đi khá xa, trên rãnh được lát bằng cành cây và phủ đất ẩm tạo thành những ống thoát khói. Từ trong lò tuôn ra, khói tỏa vào khắp những rãnh, bốc lên gặp lượt đất ẩm, bị lọc và cản lại, lan ra là là trên mặt đất, thoảng nhẹ nhàng như làn sương buổi sớm. Kiểu bếp này ngay sau đó đã được phổ cập thoáng rộng đến những đơn vị chức năng và được bạn bè nuôi quân hoan nghênh. Bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất tương thích với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày. Tháng 10 năm 1952, đơn vị chức năng đã quyết định hành động lấy tên người chiến sỹ sáng tạo ra để đặt tên bếp : Bếp Hoàng Cầm .

Hiệu quả trong thực tiễn[sửa|sửa mã nguồn]

Từ khi sinh ra cho tới nay, bếp Hoàng Cầm được sử dụng thoáng rộng trong quân đội Nước Ta và là bắt buộc sử dụng ở toàn bộ những đơn vị chức năng .Với sáng tạo độc đáo này, bộ đội đã được ăn cơm nóng, có nước nóng để uống trong mùa đông, những viện quân y dã chiến có nước nóng để sát trùng dụng cụ y khoa … Sáng kiến này có giá trị lớn trong thực tiễn hoạt động giải trí hành quân, chiến đấu và góp thêm phần quan trọng giữ gìn sức khỏe thể chất cho bộ đội .Từ khi bếp Hoàng Cầm sinh ra những chiến sỹ nuôi quân không còn thấp thỏm máy bay địch nhòm ngó mỗi khi nổi lửa, bộ đội không phải ăn cơm nguội do nấu vào đêm hôm. Bếp Hoàng Cầm đã góp thêm phần không nhỏ vào việc giữ gìn sức khỏe thể chất cho bộ đội, bảo vệ quân số chiến đấu cao. Bếp bảo vệ giữ được bí hiểm : quy trình nấu ăn đêm hôm lửa không hắt sáng ra ngoài, ban ngày khói không bị thoát lên thành cột khói đúng theo chủ trương ” đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng “. ; Bảo đảm được bảo đảm an toàn : bếp vững chãi, không bị sụt lở trong quy trình nấu ăn và hạn chế được sát thương do mảnh bom đạn, An toàn cho cả người và vật chất ; Đồng thời bảo vệ cấp nhiệt tốt : Bếp cháy tốt, cung ứng đủ nhiệt cho quy trình nấu ăn thao tác thuận tiện .

Trong hồi ức “Đường tới Điện Biên Phủ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Nhà xuất bản QĐND- 2001), có đoạn viết: “Sẽ là một thiếu sót nếu không nhắc ở đây một sáng kiến đã mang lại sự cải thiện rất quan trọng trong đời sống các chiến sĩ ngoài mặt trận “. Đại tá, Giáo sư – Tiến sĩ Đặng Hiếu Trung, nguyên là chuyên viên đầu ngành của Khoa Tai mũi họng Bệnh viện Quân y 108 cho biết thêm: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông (Hoàng Cầm) là Đội trưởng Đội Điều trị 8, thuộc Đại đoàn 308. Đội điều trị 8 đóng cạnh suối Hồng Lếch, cách hầm De Castries chỉ 4 km đường chim bay về phía tây. Đội Điều trị 8 có trên 100 người cộng với thương binh vì thế mặc dầu trong hoàn cảnh chiến trường, khó khăn, thiếu thốn, bom đạn của kẻ thù nhưng Tiểu đội trưởng nuôi quân Hoàng Cầm cùng tổ nuôi quân vẫn đảm bảo cơm nóng, canh ngọt cho Đội và thương binh.

Cuộc đời khó khăn vất vả của cha đẻ ” Bếp không khói “[sửa|sửa mã nguồn]

Sau 16 năm ship hàng trong quân đội, Hoàng Cầm được phục viên khi đang giữ cấp bậc đại uý. Về làng Đồi Mây, Tam Đảo là quê ngoại của Hoàng Cầm. Về quê, ngày ngày vợ chồng ông lên đồi phát cỏ, cuốc đất trồng chè, sắn. Đất ở đây đá sỏi, bạc mầu, làm lụng khó khăn vất vả nhưng đời sống dân làng và mái ấm gia đình ông quanh năm vẫn nghèo nàn. Nhưng cái đói không trói nổi ông, ngay trong những năm sáu mươi, Hoàng Cầm đã xoay xở, tìm cách làm kinh tế tài chính để tự cứu mình và cứu dân làng. Ông chuyển sang làm que kem bán cho những cơ sở sản xuất ở TP.HN và Vĩnh Yên để kiếm sống. Bán que kem, ngày ngày phải long dong khắp đây đó tìm nơi tiêu thụ rất khó khăn vất vả. Sau ba năm bán que kem thu nhập thất thường, Hoàng Cầm lại chuyển sang mở xưởng nấu nước chấm ( nước mari ) và làm miến đao. Làm nước chấm và miến thu nhập tạm ổn, đời sống mái ấm gia đình ông đã vượt qua những ngày đói kém .Vợ Hoàng Cầm đau yếu luôn nên tất tật việc làm nặng nhọc trong nhà đều dồn lên vai ông. Phải lao động quần quật, ông mới nuôi nổi năm miệng ăn. Khi người con trai duy nhất của vợ chồng ông là Hoàng Thư khôn lớn, những tưởng Thư sẽ gánh vác việc làm nặng nhọc để bố đỡ khó khăn vất vả, nhưng năm đó, cuộc kháng chiến chống Mĩ đang quyết liệt, ông Hoàng Cầm đã động viên con trai lên đường xung trận. Trước ngày nhập ngũ, ông dặn con cứ yên tâm đi, bố tuy sức yếu rồi nhưng vẫn cố gắng nỗ lực làm lụng để nuôi mẹ và những em con được, mặt trận đánh Mĩ chắc như đinh sẽ ác liệt hơn thời đánh Pháp … Con trai ra đi một lèo cho đến ngày giải phóng miền Nam, ông ở nhà vật lộn với đời sống nguy hiểm giữa vùng quê bần hàn của thời kì bao cấp .Tuổi cao, ngày càng yếu, Hoàng Cầm không còn đủ sức làm xì dầu, miến đao nữa, ông tìm lên một ngôi đền thờ Đức Thánh Trần trên núi Tam Đảo, ship hàng đèn nhang, hương khói, quét dọn và trông coi đền. Gặp những người dân sinh sống quanh đền, họ kể, ngày ngày ông dậy từ tinh mơ, quét dọn, nhặt cỏ, tưới cây, lau bệ Phật, sắp hương, nến để người thập phương lên du lịch thăm quan, nhang khói Đức Thánh. Không phải nhà sư tu hành chính quả, nhưng cái tâm của ông với ngôi đền, với dân làng khiến ai lui tới cũng đều kính nể. Họ gọi ông với những cái tên quen thuộc như : Hoàng Cầm giữ đền, ông từ Cầm … Chị Hoàng Thị Định, con gái ông Hoàng Cầm hiện ở thị xã Tam Đảo kể với chúng tôi : ” Một hôm tôi lên đền giúp sức bố, gần trưa có đoàn cán bộ từ Thành Phố Hà Nội lên Tam Đảo du lịch thăm quan và vào thắp hương Đức Thánh Trần, có ông cán bộ ăn mặc chỉnh tề, đầu đội mũ phớt, đeo kính trắng, sau khi thắp hương, quay ra cứ chằm chằm nhìn bố tôi. Lúc đó bố tôi đang mải quét lá khô dưới gốc cây đại. Ông cán bộ bỗng kêu lên : Anh Cầm hả ? Ông cán bộ tháo kính ra, cái chổi trên tay bố tôi rơi xuống đất, hai người ôm chặt lấy nhau. Sao anh lại ở đây, anh Cầm ? Rồi ông quay ra ra mắt với những người cùng đi : Đây là anh Hoàng Cầm, bạn cùng đơn vị chức năng với tôi, người sản xuất ra bếp Hoàng Cầm nổi tiếng thời chống Pháp đấy. Mọi người vây quanh, hình như họ đều đã từng nghe tiếng cái bếp Hoàng Cầm của bố tôi. Có người đi bộ đội từng nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm, được thấy tác giả sản xuất ra cái bếp nổi tiếng, họ chú ý nhìn bố tôi vẻ thán phục. Ông cán bộ buông bố tôi ra hỏi : Anh ở đền này lâu chưa ? Hơn chục năm rồi – Bố tôi nói. Ông ta tròn mắt : Sao anh không chuyển ngành hay đi làm một nghề gì đó mà lại ở chùa ? Tôi đã làm nhiều nghề rồi. Giờ đây sức yếu, ở đền cái tâm mình nó tĩnh tại, tôi thấy khỏe ra. Ông cán bộ nói : Anh hay thật, người ta mong có thành tích xuất sắc để được làm quan, có tiền, có chức, anh lại vào chùa để được hưởng tĩnh tâm. Và ông ta quả quyết : Không. Người ” vĩ đại ” như anh, người ” đẻ ” ra bếp Hoàng Cầm cho anh nuôi toàn quân không hề đi quét chùa. Về TP.HN, tôi sẽ xin cho anh việc làm khác. Bố tôi khước từ : Cảm ơn anh. Ước nguyện của tôi giờ chỉ mong mình sống khỏe mạnh. Làm được việc gì có ích cho dân, cho nước thì tôi làm. Bố tôi bảo, ông bạn gặp bố tôi hôm đó là cán bộ cấp Vụ trưởng. Về sau không thấy ông ta liên lạc lại, tôi nói hay ông ấy quên bố, bố tôi bảo, ông ấy làm chỉ huy việc làm bận chứ ông không quên đâu vì ngày ở đơn vị chức năng hai người rất thân nhau mà ” .Mười lăm năm hương khói trên cõi ” niết bàn “, tuổi cao, đau yếu luôn, ông Hoàng Cầm không còn đủ sức coi đền Đức Thánh Trần núi Tam Đảo nữa. Lộc Thánh và sự trợ giúp của địa phương cũng không nuôi nấng nổi ông lúc cuối đời. Ông về Thành Phố Hà Nội nương nhờ người con trai Hoàng Thư. Sau hơn 10 năm chiến đấu ở mặt trận B3, Thư xuất ngũ về học sư phạm rồi làm giáo viên trường trung học phổ thông Phan Đình Phùng, TP. Hà Nội. Đồng lương giáo viên rất ít, phải nuôi vợ không việc làm cùng con nhỏ và người bố già bệnh tật, thực trạng mái ấm gia đình Hoàng Thư thật khốn khó. Thương con, ông Hoàng Cầm không muốn mình thành gánh nặng cho con nhưng chẳng còn cách nào. Cuộc sống lê dài ngày một chồng chất khó khăn vất vả, ông đành viết một lá đơn ý kiến đề nghị cấp trên tương hỗ. Nhưng vốn là người chỉ biết tự lực vượt khó, không khi nào yên cầu kêu ca nên viết xong, ông ngần ngại rồi lại xé đi. Một người bạn của Hoàng Cầm khuyên : ” Cái chất trong con người ông là chất Hoàng Cầm. Nhưng Hoàng Cầm cũng là con người. Mình hoạn nạn, mình kêu, đấy mới là con người ” .

Nghe lời bạn, cộng với gia cảnh bức thúc quá, nên lá đơn thứ 2 đề ngày 15/3/1994 của Hoàng Cầm có đoạn: “… Cả gia đình tôi bốn bố con, ông cháu ở nhà một “mái vẩy”

9

m

2

{\displaystyle 9m^{2}}

{\displaystyle 9m^{2}} của trường Phổ thông trung học Phan Đình Phùng cho mượn. Tôi không biết nằm dọc, nằm nghiêng, ngửa thế nào cho tiện. Các cháu học sinh của con tôi, bạn bè, đồng đội đến thăm khi đau yếu, thật ái ngại, xin ngồi xuống đất. Lúc ốm chìa tay bấu đồng lương ít ỏi của con để mua thuốc, thật không đành. Cực chẳng đã, có lần tôi chống gậy đến một bệnh viện khám bệnh và xin thuốc, một nhân viên phòng khám bảo: Bác phải có sổ, có giấy tờ, chế độ mới được khám cấp thuốc. Tôi trình bày, tôi là Hoàng Cầm, bộ đội phục viên ở với con nên không có giấy tờ gì. Họ nói: Một Hoàng Cầm chứ mười Hoàng Cầm cũng vậy thôi. Tôi viết lá đơn này đề nghị cấp trên xét cấp cho tôi một cái sổ khám bệnh, một tiêu chuẩn nhà đất như hàng vạn người khó khăn khác để ổn định sức khoẻ đoạn đời còn lại. Năm nay tôi đã 81 tuổi. Để khỏi có lúc chợt nghĩ “nếu có mệnh hệ nào” tôi không muốn nằm tại 9m2 nhà đi mượn cho con cháu khỏi phiền lòng…”. Nỗi lòng ấy âu cũng là cái chất rất con người trong Hoàng Cầm. Và chính nó đã làm nên một Hoàng Cầm chân thật và cao thượng, làm rung động trái tim của không ít người.

Lời thỉnh cầu của ông đã được những người làm chính sách hết lòng giúp đỡ. Khi tôi gặp Thiếu tướng Nguyễn Thế Kỷ, nguyên Cục trưởng Cục Quản lí Hành chính Bộ Tổng tham mưu, hiện sống tại phường 2, Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, ông kể lại: – Ngày ấy, nhận được đơn và ý kiến của cấp trên, chỉ trong một tuần lễ, chúng tôi đã lo chu tất cho ông Hoàng Cầm. Đã giải quyết cho ông một căn nhà

43

m

2

{\displaystyle 43m^{2}}

{\displaystyle 43m^{2}} ở khu tập thể 28 Điện Biên Phủ, Hà Nội, một quyển sổ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Quân đội và tạo việc làm cho người con dâu của ông là chị Minh, vợ anh Hoàng Thư vào giữ trẻ tại cơ quan. Nhưng ông Hoàng Cầm hưởng cuộc sống đầm ấm trong căn nhà mới được gần ba năm thì đi theo tiên tổ. Ra đi, ông để lại cho đời một công trình vô giá. Dẫu mai này, có thể người ta lại quên cái tên người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm nhưng bếp Hoàng Cầm của ông, cái bếp đã đi vào lịch sử hai cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc, sẽ là cái bếp huyền thoại trong lòng tất cả mọi người.

Theo quy mô, cấu tạo bếp được phân chia thành ba loại: Bếp Hoàng cầm cấp 1, cấp 2, cấp 3.
– Bếp cấp 1: Bếp cấu tạo gồm hầm bếp, hệ thống thoát khói và mái che tạm thời bằng tăng bạt, lá cây. Bếp được sử dụng trong thời gian tạm dừng khi hành quân còn cách xa địch, ít phi pháo hoặc trong chiến đấu tiến công.
– Bếp cấp 2: Cũng gồm 3 phần như bếp cấp 1 nhưng ở bếp Hoàng cầm cấp 2 do đưa cả khu vực đun nấu xuống hầm nên khối lượng đào lớn hơn. Có chỗ để thực phẩm, có bể nước, trên lát bàng tre, gỗ chắc chắn, lấp đất dày 0,5m trở lên.
– Bếp cấp 3: Tương tự như bếp cấp 2, có thêm hầm chứa lương thực, thực phẩm và hầm ngủ của nuôi quân, mái che hầm bếp bằng bê tông, kết hợp gỗ, đất dày trên 1m. Bếp dùng trong chiến đấu phòng ngự hoặc trú quân dài ngày gần địch, nơi địch đánh phá ác liệt. Trong mỗi loại bếp trên thì tùy thuộc vào vị trí của hố đặt nồi với nhau lại chia làm hai kiểu chữ I và chữ A.

Cấu tạo bếp Hoàng Cầm cấp 1[sửa|sửa mã nguồn]

Bếp có 5 bộ phận chính:
– Bếp
a. Bệ bếp: Nếu là đất bằng thì mặt bệ bếp cần đào thấp xuống 15- 20cm kích thước dài 1,4m, rộng 0,8m, cao 0,8m, phía dưới chân bệ bếp có một cái gờ rộng 10cm để đỡ củi dọc theo chiều dài bệ bếp.
b. Hố đặt nồi: Lấy nồi đặt lên bệ bếp, khoanh đánh dấu rồi khoét dần, khi đặt nồi xuống, nồi còn thừa lên khoảng 5cm là vừa, xung quanh mép hố sát khít vào thành nồi. Trong lòng hố khoét hình tang trống, sửa cho nhẵn, tạo ra một khoảng cách với thành nồi để khi đốt ngọn lửa lùa đều xung quanh, tận dụng lượng nhiệt, đun chóng sôi. Đáy hố cách đáy nồi khoảng 20-25cm. Hai nồi cách nhau khoảng 15cm.
c. Cửa bếp: Cửa bếp được khoét cân đối với mặt nồi có dạng hình vòm loa kèn (To trong, ngoài nhỏ), rộng 20-25cm, cửa bếp nhỏ hơn khoảng cách từ đáy nồi tới đáy hố đặt nồi 5cm.
d. ống khói: Đào phía trong đáy hố đặt nồi, vòng lên phía trên bắt vào ống khói, khoét vào ống khói cao dần lên rãnh dẫn khói, bảo đảm luồng khói thoát ra đi được dề dàng
– Hố ngồi của người nấu. Để nuôi quân ngồi đun nấu, đồng thời che chắn ánh lửa và che chắn bảo đảm an toàn cho nuôi quân. Hố có chiều dài bằng bề dài bệ bếp, rộng khoảng 0,80m và sâu tùy yêu cầu, nhưng tối thiểu phải bằng 0,95m
– Hệ thống dẫn khói, chứa khói, tản khói
Hệ thống thoát khói có tác dụng hút khi tạo ra sự đối lưu không khí giúp cho bếp cháy tốt và dẫn khói thoát ra tạo thành làn khói mỏng bav là là trên mật đất Hệ thống thoát khói gồm 3 bộ phận: hầm chứa khói, rãnh dần khói và tia tản khói.
+ Rãnh dẫn khói: có tiết diện 30×30 Cm, chiều dài từ ổng khỏi đèn hãm chứa khói thứ nhất 2,5 đến 3m. thẳng góc và cân đối với chiều dài bệ bếp. hướng thoai thoả vươn lên. Góc vươn 30 độ là tốt nhất.
+ Hầm chứa khói: Rãnh dẫn khói đưa khói tới 2 hầm chứa khói, hầm thứ nhất có kích thước 0,80×0,80×0,80m. Hầm thứ 2 cách hầm thứ nhất 3m có kí thước 1x1x1m.
+Tia tản khói: Các tia tản khói bắt đầu từ hầm chứa khói thứ 2 Mỗi bếp thường có 3 tia tản khói, có tiết diện 20×20 cm hoặc 25×25 Cm, dài ít nhất là 7m đầu tia tản khói khuất vào trong bụi rậm hoặc lùm cây.
+ Cây, cành để lót và lấp đất: Hệ thống thoát khói được lát phía trên bằng cây, que tươi, phủ một lớp lá tươi và trên cùng là một phủ một lớp đất tơi xốp để cho khói thoát ra hành làn khói mỏng.
– Mái che, lợp bếp.
Nhằm giữ ánh lửa không để lọt ra ngoài và đun nấu được trong mọi điều kiện thời tiết. Có thể dùng tăng bạt có khung là tre, nứa, cây gỗ nhỏ căng ra che kín bếp hoặc dùng tre, nứa lá để lợp. Yêu cầu ban đêm không để lọt ánh sáng ra ngoài và ra vào thuận tiện. Phòng khi trời mưa nước tràn xuống bếp, cần đào xung quanh bếp hệ thống rãnh thoát nước để dẫn nước chảy ra ngoài nhất là khi đào bếp ở sườn đồi phải đắp bờ cao, chắc chắn để giữ nước khỏi tràn vào gây ngập và vỡ bếp.

Cách đun một số ít điểm cần quan tâm[sửa|sửa mã nguồn]

a. Cách đun.
– Chuẩn bị: Trước khi nấu ăn phải kiểm tra lại các bộ phận của bếp, nhất là hệ thống thoát khói xem đã bảo đảm yêu cầu kỹ thuật chưa. Củi đun bếp phải khô, chẻ nhỏ, cắt ngắn vừa phải, chuẩn bị đầy đủ lương thực thực phẩm.
– Nhóm bếp: Dùng củi khô chẻ nhỏ để châm lửa nhóm bếp ngay trong buồng đốt, khi bếp đã cháy đều mới tiếp dần củi vào. Khi nhóm bếp phải kiểm tra tình trạng thoát khói của bếp để xử lý kịp thời, bảo đảm yếu tố bí mật.
– Quá trình nấu ăn: Phải tiếp củi vào hoặc dùng quạt tay để quạt gió vào cửa bếp.
b. Một số điểm cần lưu ý:
Trong quá trình sử dụng bếp thường gặp một số sự cố như: bếp khó cháy là do bếp quá ẩm, củi bị ướt hoặc hệ thống thoát khói bị tắc, phải dùng củi khô đốt sấy bếp, sấy củi cho khô, tìm và sửa lại chỗ hệ thống thoát khói bị tắc. Lửa hắt sáng ra ngoài là do củi cháy gần cửa bếp hoặc bếp bị gió thổi ngược lại. Để khắc phục hiện tượng này cần đẩy củi sâu vào trong cửa bếp hoặc dụng vật liệu không cháy đế che cửa bếp…Để đào bếp nhanh cần chuấn bị sẵn dụng cụ (Cuốc, xẻng, dao…) và phân công hợp lí cụ thể thành các bộ phận, bộ phận nào đào xong trước sẽ điều chỉnh sang bộ phận khác. Ngoài bếp còn phải đào hố đổ rác, hố vệ sinh, hố chứa nước, giàn chia thức ăn, pha thái thực phẩm.

Có văn hoá rất gần với Việt Nam, quân đội Trung Quốc cũng sử dụng loại bếp dã chiến có thiết kế khá giống với bếp Hoàng Cầm của Việt Nam để nấu được đồ ăn nóng hổi cho binh lính ngoài chiến trường. Mặc dù không ưu việt hay có khả năng phân tán để che giấu khói, thế nhưng bếp dã chiến đặt dưới đất của Quân đội Trung Quốc cũng sở hữu một vài điểm tương đồng với mẫu bếp Hoàng Cầm của Việt Nam. Loại bếp dã chiến của Trung Quốc có cấu tạo dẫn khói giống với bếp Hoàng Cầm của Việt Nam và có thể đào cùng lúc nhiều bếp thông nhau, nấu được nhiều món cùng lúc. Ngoài việc đào bếp, lính Trung Quốc cũng được huấn luyện cách tạo ra lửa từ những vật dụng tự nhiên – đề phòng trường hợp không có máy lửa hoặc máy lửa và diêm bị ướt trong quá trình hành quân. Việc tạo ra lửa theo kiểu của người cổ đại này thực sự rất khó khăn và có thể là bất khả thi nếu như môi trường xung quanh ẩm ướt, nhiều mưa. Sau khi có bếp và có lửa, văn hoá ẩm thực nghìn năm của Trung Hoa cổ đại sẽ được bê tận ra chiến trường. Những món ăn như thế này chắc chắn sẽ cung cấp nhiều năng lượng và sức chiến đấu cho người lính hơn những món ăn đóng gói khô khan, nguội ngắt. Giống với binh lính mọi quốc gia khác trên thế giới, việc ăn đồ khô và đồ đóng hộp trong thời gian dài cũng là một hành động “như tra tấn” với lính Trung Quốc. Sau khi xong nhiệm vụ nấu nướng, bếp sẽ được lấp lại để đảm bảo tính bí mật của quá trình hành quân.