Seoul Broadcasting System – (서울방송그룹) – (서울방송그룹)

Seoul Broadcasting System – (서울방송그룹) – (서울방송그룹)

Seoul Broadcasting System (SBS) là một trong những đài truyền hình lớn nhất và phổ biến nhất tại Hàn Quốc. Đây là một trong “tứ đại đài truyền hình” của Hàn Quốc, bên cạnh KBS (Korean Broadcasting System), MBC (Munhwa Broadcasting Corporation), và EBS (Educational Broadcasting System).

Dưới đây là một số thông tin về Seoul Broadcasting System (SBS):

  1. Lịch sử: SBS được thành lập vào ngày 9 tháng 11 năm 1990, và nó đã nhanh chóng trở thành một trong những đài truyền hình quan trọng và ảnh hưởng nhất tại Hàn Quốc.
  2. Nội dung: SBS sản xuất và phát sóng nhiều loại chương trình, bao gồm các chương trình tin tức, giải trí, phim truyền hình, chương trình thực tế, và nhiều loại chương trình khác. Các chương trình của SBS thường có sự đa dạng và chất lượng cao.
  3. Chương trình nổi tiếng: SBS đã sản xuất nhiều chương trình truyền hình nổi tiếng và ăn khách, bao gồm “Running Man,” “My Love from the Star,” “Doctors,” “The Penthouse,” và nhiều chương trình thực tế khác.
  4. Phát sóng quốc tế: Ngoài phát sóng tại Hàn Quốc, SBS cũng có mạng lưới phát sóng quốc tế để cung cấp nội dung Hàn Quốc cho khán giả toàn cầu. Các chương trình của họ thường được phụ đề và dịch sang nhiều ngôn ngữ.
  5. Trụ sở: Trụ sở chính của SBS đặt tại Seoul, Hàn Quốc, và đài này có nhiều chi nhánh và văn phòng trên khắp đất nước.

SBS đã đóng góp lớn vào việc phát triển và thúc đẩy nền văn hóa giải trí Hàn Quốc trên toàn thế giới và đã thu hút một lượng lớn khán giả quốc tế thông qua các chương trình phát sóng quốc tế và nội dung truyền hình của họ.

Seoul Broadcasting System – (서울방송그룹) - (서울방송그룹)

Seoul Broadcasting System – (서울방송그룹) – (서울방송그룹)

Seoul Broadcasting System (SBS) (KRX: 034120[liên kết hỏng]) là kênh phát thanh và truyền hình quốc gia của Hàn Quốc. Đây là đài truyền hình thương mại tư nhân với mạng lưới phủ sóng rộng khắp cả nước. Vào ngày 17 tháng 3 năm 2009, công ty đã chính thức được gọi là SBS, trước đây vẫn được gọi là Seoul Broadcasting System (서울방송그룹). Seoul Broadcasting System  (서울방송그룹) cũng vẫn được dùng như là tên chính thức hiện nay. SBS được phát sóng trên kênh 6 cho Analog và truyền hình Kỹ thuật số, trên kênh 59 đối với truyền hình cáp.

SBS là kênh thương mại thứ hai của Hàn Quốc sau MBC (Munhwa Broadcasting Corporation), và lịch sử của nó bắt đầu khi mục đích của nó là thu hút nhiều sự chú ý của người xem đến với MBC từ trước năm 1990. Những năm 1980, MBC là cơ quan chính phát sóng các sự kiện thể thao như FIFA World Cup 1986. Sau cải cách dân chủ năm 1987, SBS được thành lập vào ngày 14 tháng 11 năm 1990, khi chính phủ cho phép đăng ký một đài truyền hình thương mại mới của Hàn Quốc, trong quá trình tách MBC khỏi KBS. Trong quá trình thành lập, SBS bắt đầu phát sóng thử nghiệm, và sau đó, nó đã được phát sóng lần đầu tiên trên các kênh truyền hình và phát thanh ở Seoul vào ngày 1 tháng 12 năm 1990, cùng năm đó. Từ ngày 20 tháng 3 năm 1991, SBS phát hành chương trình phát sóng thường xuyên đầu tiên, và ban đầu chỉ phát sóng ở Seoul và một số các khu vực xung quanh. Đồng thời, SBS đã phát động một kênh truyền hình và đài phát thanh bằng cách phát sóng bài phát biểu khai mạc của người sau này trở thành Tổng thống Hàn Quốc, Roh Tae-woo. Cuối cùng, vào ngày 9 tháng 12 năm 1991 lúc 15h00, trùng với lễ kỷ niệm 30 năm của đài MBC, SBS đã bắt đầu phát sóng chính thức tại Seoul cùng với danh hiệu “Ngày thành lập của MBC và SBS“. Chương trình phát sóng một số sự kiện diễn ra giữa tháng 12 năm 1961 và ngày 9 tháng 12 năm 1991. MBC và SBS cũng tổ chức kỷ niệm sáng lập vào tháng 12 năm 2001, với tiêu đề “Ngày thành lập của MBC và SBS năm 2001” được phát sóng trên cả SBS và MBC.

Trong suốt những tháng tiên phong, SBS chỉ phát sóng những sự kiện trực tiếp bởi chi phí sản xuất những sự kiện như vậy là thấp hơn so với những chương trình không trực tiếp. Càng ngày, lượng người xem kênh SBS càng tăng lên trong khu vực thủ đô hà nội Seoul. Cuối cùng thì SBS cũng đã được được cho phép phát sóng tự do từ ngày 9 tháng 10 năm 1992. SBS cũng được được cho phép lắp ráp những trạm thu phát sóng tại những vùng như Busan. Sau đó, SBS còn khởi đầu lan rộng ra thêm mạng lưới phát sóng ở nhiều vùng miền khác nữa .

Vào tháng 10 năm 1994, SBS hòa nhập vào mạng lưới quốc gia bằng cách dựng những trạm phát sóng mới. Những trạm phát sóng tư nhân ở những khu vực như Daegu cũng bắt đầu hoạt động. Sau đó SBS, cùng với KNN, TJB, và TBC, cũng đã tạo thành một mạng lưới phát sóng những chương trình của SBS ở những khu vực khác như đối với Daegu.

SBS đưa ra mẫu logo lúc bấy giờ vào ngày 14 tháng 11 năm 2000 nhân ngày kỉ niệm 10 năm xây dựng. Logo của SBS gồm có 3 vòng tròn, cái nọ bao ngoài cái kia với 3 sắc tố khác nhau biểu lộ cho con người ( trong cùng ), văn hóa truyền thống, và phát minh sáng tạo – là triết lý quản trị theo khuynh hướng tương lai, cho thấy rằng ” đời sống ” và ” hạt giống của nền văn minh ” được lựa chọn làm nền tảng cho SBS .

Hiện nay, thương hiệu của SBS đang bao phủ trên mọi lĩnh vực như xe cộ, điện thoại, phong thư, danh thiếp, thẻ nhớ, trực thăng, đồng phục… SBS cũng sử dụng câu slogan “Sự nhân văn thông qua kĩ thuật số” cho đến tháng 1 năm 2010 thì được chuyển sang slogan mới cho đến nay. Câu slogan cho công nghệ số vẫn tiếp tục là hình ảnh đi đầu cho SBS và cũng được coi là ước nguyện của đài. Gomi là linh vật của SBS và được coi là biểu trưng cho “Sự nhân văn thông qua kĩ thuật số” cùng với âm hưởng của tự nhiên và đời sống con người với mức độ quan trọng của môi trường xanh.

Các kênh của SBS[sửa|sửa mã nguồn]

  • 1 phát sóng mặt đất (HLSQ-TV)
  • 2 trạm phát thanh
Tên Tần số phát sóng Năng lượng (kW) Trạm phát
SBS Radio 792KHz AM
103.5 MHz FM
50 kW(AM)
10 kW(FM)
Neunggok-dong, Goyang-si, Gyeonggi-do,(AM)
Mount Namsan, Seoul(FM)
SBS Power FM 107.7 MHz FM
100.3 MHz FM
10 kW
100W
Mount Gwanaksan, Seoul
Saengyeon-dong, Dongducheon-si, Gyeonggi-do
SBS V-Radio CH 12C DMB 2 kW Mount Gwanaksan, Seoul

Công ty con[sửa|sửa mã nguồn]

Mạng lưới SBS[sửa|sửa mã nguồn]

Chương trình phát sóng[sửa|sửa mã nguồn]

  • SBS 8 News (SBS 8 뉴스, Mục tin tức chính)
  • Let’s Go! Morning Wide (출발! 모닝와이드, Chương trình buổi sáng)
  • SBS Kinh tế đời sống (SBS 생활경제)
  • SBS 12 News (SBS 12 뉴스, Chương trình buổi trưa)
  • SBS News Parade (SBS 뉴스퍼레이드, Chương trình buổi tối)
  • SBS Night Line (SBS 나이트라인, Chương trình nửa đêm)
  • SBS News (SBS 뉴스)
  • SBS Sports News (SBS 스포츠뉴스)
  • Sports Tonight (스포츠 투나잇)
  • Sunday News Plus (선데이 뉴스 플러스)
  • Thời tiết và cuộc sống (날씨와 생활)

Một số chương trình nổi tiếng khác[sửa|sửa mã nguồn]

Các đài truyền hình bạn bè[sửa|sửa mã nguồn]

Scandal ở Inkigayo[sửa|sửa mã nguồn]

Một vụ scandal liên quan đến Ryu Hwayoung của T-ara trong buổi phát sóng chương trình Inkigayo ngày 29 tháng 1 mà Hwayoung đã vô ý để lộ ngực của mình trong lúc thực hiện màn vũ đạo solo. Một hình chụp màn hình đã được đăng tải trên khắp các trang mạng của Hàn Quốc cũng như trên các trang mạng xã hội khác như Twitter hay tumblr. allkpop nói rằng chương trình đang được truyền hình trực tiếp lúc sự cố xảy ra. Core Contents Media đã đưa ra một phát ngôn chính thức về sự cố đó như sau: “Chúng tôi rất lấy làm tiếc về sự cố tại ‘Inkigayo’. Chúng tôi đã nghe vài lời đồn rằng tiết mục đó được ghi hình trước nên đó là lỗi của SBS, nhưng thực sự là không phải vậy. Màn diễn của T-ara hoàn toàn là diễn trực tiếp, và được phát sóng trực tiếp. Không hề có một sơ suất nào trong lúc nhóm diễn tập nhưng không ai có thể lường trước được tình huống khi truyền hình trực tiếp. Ngoài cái sự thật cô ấy là một người nổi tiếng, thì cô ấy cũng vẫn là một người còn thiếu kinh nghiệm, vì vậy tôi hy vọng mọi người nhớ cho rằng cô ấy vẫn còn quá trẻ để có thể chịu đựng.” SBS cũng đã lên tiếng thông qua soompi rằng: “Trước nhất, màn diễn của T-ara được phát sóng trực tiếp, không phải được ghi hình trước. Đạo diễn chính đã quá bận rộn trong lúc đó nên ông không thể kiểm soát hết được tình hình. Chúng tôi rất lấy làm tiếc về sự việc đã xảy ra”. Chị gái của Hwayoung là Hyoyoung sau đó đã nói trên twitter: “Gửi các fan. Cảm ơn các bạn. Tình huống đó sẽ cần đến sự quan tâm lớn lao của các bạn. Chúng tôi sẽ lại bắt đầu mỉm cười từ ngày mai”.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]