Chuyện người con gái Nam Xương – Wikipedia tiếng Việt

Chuyện người con gái Nam Xương
Thông tin tác phẩm
Tên gốc Nam Xương nữ tử truyện
(南昌女子傳)
Tác giả Nguyễn Dữ
Thời gian sáng tác Thế kỷ XVI
Triều đại sáng tác Nhà Lê trung hưng
Quốc gia Việt Nam
Ngôn ngữ Văn ngôn bằng Chữ Hán (bản gốc)

Nam Xương nữ tử truyện hay Nam Xương nữ tử lục (chữ Hán: 南昌女子傳)[1], được diễn Nôm thành Chuyện người con gái Nam Xương[2], là nhan đề của câu chuyện thứ 16 trong 20 truyện được chép lại trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục bằng chữ Hán của danh sĩ Nguyễn Dữ sống vào cuối thời nhà lê cuối thế kỉ XVI nhà Lê Sơ, đầu thời nhà Mạc. Dựa trên một câu chuyện dân gian về một nỗi oan khuất của một người thiếu phụ, Nguyễn Dữ đã viết về phẩm chất và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đồng thời lên án, tố cáo lễ giáo phong kiến hà khắc đã không cho người phụ nữ được bảo vệ mình. Truyện được đánh giá là một áng “thiên cổ kì bút”, phản ánh sinh động về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Tác phẩm đã được đưa vào làm văn bản chính của Bài 4 Sách Giáo Khoa Ngữ Văn Lớp 9 ( Tập 1 ) ( thuộc Bộ Sách Giáo Khoa Chính Thức của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ) .
Nguyễn Dữ – có sách phiên âm là Nguyễn Tự ( chưa rõ năm sinh, năm mất ), là một danh sĩ sống vào thế kỉ XVI, thời kỳ triều đình nhà Lê đã khởi đầu khủng hoảng cục bộ, người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Thành Phố Hải Dương. Ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, là người học rộng, tài cao, am hiểu văn chương. Ông làm quan được một năm sau đó về sống ẩn dật ở Thanh Hóa .

Chuyện người con gái Nam Xương là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục (Cùng với 11 trong 20 truyện về phụ nữ). Nguồn gốc của truyện bắt nguồn từ một truyện cổ tích dân gian tên là Vợ chàng Trương.

Tóm tắt tác phẩm[sửa|sửa mã nguồn]

Truyện kể về người con gái có tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Nàng là người có dung hạnh vẹn toàn. Chồng là Trương Sinh, là con của 1 nhà hào phú, ít học, tính tình hay ghen, luôn đề phòng với Vũ Nương. Vì ít học nên Trương Sinh phải đi lính, để lại mẹ già và Vũ Nương ở nhà. Một thời hạn sau, Vũ Nương sinh ra đứa con đầu lòng đặt tên là Đản .

Ở nhà, Vũ Nương chăm nom con và mẹ chồng rất mực chu đáo. Vì nhớ thương con, mẹ chồng nàng ngày càng ốm nặng rồi mất, nàng lo tang ma chay chu đáo như với cha mẹ đẻ mình. Để đỡ nhớ chồng và sợ con thiếu tình cha, nàng hay đùa với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói với con đó là cha Đản.

Sau cuộc chiến, Trương Sinh trở về. Chàng đau buồn ra thăm mộ mẹ, bế bé Đản theo, ra đến đồng đứa trẻ quấy khóc vì đứa bé bảo Trương Sinh không phải là cha Đản, cha Đản đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Vì tính hay ghen, Trương Sinh đã đánh mắng Vũ Nương rất tàn bạo rồi đuổi nàng đi, dù cho hàng xóm thanh minh. Không thể thanh minh được, Vũ Nương đã trẫm mình xuống dòng sông Hoàng Giang, để lấy cái chết minh oan cho chính mình.[3] Nàng được Linh Phi, vợ của vua Nam Hải cứu.

Trương Sinh tuy giận nhưng vẫn thương xót. Một buổi tối, Đản chỉ vào cái bóng trên vách và nói ” Đấy cha Đản lại đến kia kìa “. Trương Sinh mới nhận ra và ân hận muộn .Dưới động Rùa, Vũ Nương đã gặp lại Phan Lang – người cùng làng, nàng gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn nhờ Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình. Trương bèn lập đàn giải oan cho nàng, quả thấy Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa ở giữa dòng với cờ tán võng lọng rực rỡ tỏa nắng cả một đoạn sông thoắt ẩn thoắt hiện. Nàng từ biệt và không hề trở lại trần gian nữa .

Đền Vũ Điện[sửa|sửa mã nguồn]

Đền Vũ Điện ở xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là nơi thờ vợ chàng Trương, người làng Trương Xá, cũng thuộc xã Chân Lý ngày này. Theo truyền thuyết thần thoại của người dân địa phương thì ngôi đền này được kiến thiết xây dựng từ thế kỷ XV, ngay sau cái chết oan uổng của bà Vũ. Ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nứa lá tranh tre do dân địa phương dựng nên. Sau khi có chiếu của vua Lê Thánh Tông, ngôi miếu mới được sửa lại thành một ngôi đền bề thế, khang trang. Ban đầu, ngôi đền được kiến thiết xây dựng ngoài bãi ven sông Hồng, trên một bãi đất rộng mấy chục mẫu, dân cư sống thành làng. sau vì nước lũ xói mòn, bãi bị lở nên đền phải dời vào vị trí như lúc bấy giờ. [ 4 ]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]