MỘT số GIẢI PHÁP đổi mới cơ CHẾ QUẢN lý KHOA học và CÔNG NGHỆ ở nước TA TRONG – Tài liệu text

MỘT số GIẢI PHÁP đổi mới cơ CHẾ QUẢN lý KHOA học và CÔNG NGHỆ ở nước TA TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.18 KB, 25 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong vài thập niên gần đây, khoa học và công nghệ thế giới đã có những
bước phát triển hết sức mạnh mẽ. Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
rất to lớn trên tất cả các phương diện. Trong đó, hoạt động khoa học và công
nghệ đó cú bước chuyển biến lớn, đạt được một số tiến bộ và kết quả nhất định,
đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng
của đất nước. Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên
thế giới. Cõu hỏi lớn đặt ra là làm thế nào để khoa học và công nghệ nước ta có
thể vươn lên tầm cao hơn nữa, để có thể theo kịp và hội nhập với khoa học công
nghệ thế giới? Vì vậy vấn đề: đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết để khoa học và công
nghệ trở thành động lực thực sự là đòn bẩy cho nền kinh tế ở nước ta trong xu
hướng hội nhập.
II. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY LÀ MỘT YÊU CẦU TẤT YẾU KHÁCH QUAN

1

1. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải đổi mới hoạt
động quản lý khoa học và công nghệ
Mặc dù đó cú những tiến bộ nhất định nhưng cơ chế quản lý khoa học và công
nghệ ở nước ta hiện nay còn chưa được đổi mới cơ bản, còn chưa phù hợp với cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học
và công nghệ trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Khoa học và

công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp và quyết
định tình chất và trình độ phát triển của một nền kinh tế. Vì thế khoảng cách về
khoa học và công nghệ giữa các nước có cơ hội được rút ngắn thông qua chuyển
giao công nghệ và tính liên kết giữa các nước trong quá trình hội nhập.
2. Thực trạng hoạt động quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay
tồn tại nhiều bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ hội nhập.
Với xuất phát điểm là nền khoa học công nghệ thấp kém, đất nước cũn nghèo…
có thể nhận thấy rằng, hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện
nay là: “Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã
hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ khoa
học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo
ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được
sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các
viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau.
Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho
2

từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy cũn ớt, song
chưa được sử dụng tốt.” Và dẫn tới các biểu hiện cụ thể sau:
– Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp với đặc thù
của lao động sáng tạo và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Cơ chế, chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho tổ
chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ.
– Cơ chế đào tạo, quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để
phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ.
– Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển.
– Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu
chuyển sang kinh tế thị trường.
– Chính sách quản lý khoa học và công nghệ chưa thống nhất. Chưa phân cấp

trong hoạt động quản lý khoa học một cách khoa học và rõ ràng.
– Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chưa có chiến lược và tầm nhìn tương
ứng dẫn tới đầu tư dàn trải, thiếu tập trung, gây lãng phí lớn.
– Thực tế 20 năm qua, chóng ta đã và đang tiến hành sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển CNTB đi thẳng lên CNXH nhưng nước ta vẫn
là nước nông nghiệp nghèo nàn với một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, đan xen
3

nhiều phương thức sản xuất: nông nghiệp, công nghiệp và rất Ýt yếu tố hậu công
nghiệp.
Các số liệu lấy từ Viện Thông tin khoa học (ISI) ở Philadelphia theo dõi sự phát
triển khoa học và công nghệ ở các nước trên thế giới, cho thấy:
– Xét về số lượng các công trình khoa học công bố, ta ở sau Thái Lan khoảng 20
năm.
– Xét về chiều hướng phát triển, nếu tiếp diễn tình trạng này, Việt Nam sẽ càng
ngày càng thua kém Thái Lan.
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN VỪA QUA.
1.Hoạt động quản lý khoa học và công nghệ thiếu quan điểm toàn diện:

– Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã được
khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt đầy đủ
để chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa
phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã
hội. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển khoa học
và công nghệ chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật đáp
ứng nhu cầu đổi mới trong thực tiễn; lãnh đạo các cấp thiếu kiên trì, kiên quyết
trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện đổi mới quản lý khoa học và công nghệ.

4

– Chậm đổi mới tư duy, phương pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điều
kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế. Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước về đầu tư phát triển đối
với một số hoạt động khoa học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
mang tính công ích, nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển v.v…; chưa có
cơ chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động khoa học và công nghệ cần và
có thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát
triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
– Chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của khoa học xã hội và nhân văn trong việc
hoạch định chiến lược và dự báo phát triển.
– Chưa coi trọng việc liên kết các lực lượng liên ngành để cùng giải quyết các vấn
đề trọng yếu của khoa học và công nghệ.
– Các chính sách quản lý khoa học và công nghệ chưa chú trọng nghiên cứu khoa
học cơ bản trong khi nghiên cứu khoa học ứng dụng còn dàn trải, phân tấn thiếu
trọng tâm trọng điểm.
2. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ thiếu quan điểm khách quan:
– Việc duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thông qua các ưu đãi, độc
quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp nhà nước ít quan tâm
đến nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh
tranh. Năng lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn bất cập, thiếu đội
5

ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng
dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát
triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để
đầu tư cho khoa học và công nghệ.

– Chính sách phát triển khoa học và công nghệ không xuất phát từ yêu cầu thực tế
đòi hỏi của nền kinh tế mà chủ yếu dựa vào định hướng ưu tiên phát triển khoa
học và công nghệ theo ngành và vùng trọng điểm.
– Chưa tách biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sự nghiệp dẫn đến
tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và
quy định trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động khoa học và công nghệ.
– Chưa tách biệt giữa cơ quan quản lý khoa học và công nghệ với cơ quan thực
hiện hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ.
– Trong việc tuyển dụng, đánh giá cán bộ làm công tác khoa học và công nghệ
chưa thực sự khách quan.
– Các chính sách về khoa học và công nghệ được đề ra và thực hiện Ýt có quá
trình phản biện khách quan.
3. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ hiện nay thiếu quan điểm phát
triển:
6

– Chính sách quản lý về khoa học và công nghệ chưa theo kịp trình độ phát triển
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ nên những phát sinh gây lúng túng cho các
cơ quan quan lý.
– Việc chuyển giao và tiếp nhận khoa học và công nghệ thường xuất phát từ yêu
cầu phát triển trước mắt mà chưa theo xu hướng phát triển của khoa học và công
nghệ dẫn tới việc tiếp nhận khoa học và công nghệ đã lạc hậu từ bên ngoài.
– Chưa gắn phát triển khoa học và công nghệ với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
– Chưa lấy hiệu quả kinh tế, xã hội để đánh giá chất lượng quản lý khoa học và
công nghệ.
– Việc quản lý khoa học và công nghệ chưa tuân theo xu hướng vận động của các
quy luật khách quan.

IV. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở
NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Nhóm giải pháp dựa trên quan điểm toàn diện, khách quan:
a. Xây dựng cơ chế đào tạo đội ngũ quản lý khoa học công nghệ tài năng,
trong sạch
+ Do sự hình thành nền kinh tế tri thức nên thế giới đang diễn ra hàng ngày, hàng
giờ sự ganh đua gay gắt về nhân lực, trí tuệ giữa các quốc gia. Để phát triển đất
7

nước, chúng ta không thể nằm ngoài xu thế chung đó, do vậy vấn đề đào tạo và
sử dụng nhân tài trí tuệ một cách hiệu quả nhất phải là vấn đề được sự quan tâm
đầu tiên. Để làm được điều này chúng ta cần đầu tư thêm cơ sở vật chất, thiết bị
công nghệ cho các trường đào tạo để nâng cao trình độ và tiếp cận công nghệ mới
cho các học viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Đẩy mạnh hơn nữa việc
thu hút nhân tài vào các ngành khoa học công nghệ…
b. Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu:
Cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải xuất
phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, của các ngành, địa
phương ở mỗi thời kỳ.
+ Phân công, phân cấp rõ ràng trong xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ
Chính phủ quyết định các định hướng phát triển khoa học và công nghệ trọng
điểm làm cơ sở xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nước, có tầm
quan trọng quốc gia, mang tính liên ngành và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng và nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc
gia. Thủ tướng Chính phủ quyết định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng
điểm cấp nhà nước, các nhiệm vụ khoa học – công nghệ phục vụ trực tiếp cho sự
chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp

8

với các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cơ
quan liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ này, lồng ghép với các chương trình kinh tế – xã hội.
+ Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ của Nhà nước
Xác định rừ cỏc nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên ở các cấp. Cơ quan
quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp tổ chức việc trao đổi giữa
các viện, trường, doanh nghiệp và cơ quan hoạch định chính sách để xác định các
nhiệm vụ ưu tiên.
Đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ mang tính ứng dụng, xuất phát từ
nhu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các sản phẩm, thực
hiện cơ chế liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với cơ sở áp dụng kết
quả nghiên cứu trong toàn bộ quá trình từ xác định nhiệm vụ, tổ chức thực hiện,
đánh giá và đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
+ Đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ áp dụng vào
thực tiễn sản xuất và đời sống
Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ các cấp có trách nhiệm xây dựng và bảo
đảm thực hiện cơ chế đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ
áp dụng vào thực tiễn. Tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công
nghệ có trách nhiệm thực hiện các quy định về lưu giữ, bảo mật, phổ biến và sử
9

dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ. Các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có trách nhiệm đầu tư cho nghiên cứu và đổi
mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, tăng
cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nước ban hành các chính sách

khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đổi
mới công nghệ.
c.Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin khoa học một cách hệ thống, hiệu quả
nhằm liên kết được lực lượng liên ngành để giải quyết các vần đề khoa học
và công nghệ trọng yếu.
+ Hiện nay, thông tin khoa học và công nghệ của các ngành tuy nhiều nhưng rất
tản mạn không đi vào những vấn đề cụ thể cần giải quyết mà chỉ nói chung
chung. Trong tình trạng vẫn còn cơ chế độc quyền thì các tiến bộ KHCN mang
tính hệ thống liên ngành rất khó được thâm nhập vào các ngành sản xuất, đặc biệt
là các ngành được đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước. Các nhà khoa học ngoài
ngành rất kho tiếp cận nếu không có cơ chế trao đổi thông tin phù hợp. Thực tế
các tiến bộ KHCN, các phát minh muốn được ghi nhận là có đóng góp cho
KTXH của đất nước đang đứng trước việc phải tự đi tìm nơi ứng dụng trong một
cơ chế lẫn lộn giữa thị trường và hành chính quan liêu.
d. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công
nghệ
10

Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo và nâng cao
hiệu quả hoạt động của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; xây
dựng một số tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực thuộc các lĩnh vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ đến năm 2010; tăng cường mối liên kết giữa nghiên
cứu – đào tạo – sản xuất.
+ Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của Nhà nước hoạt động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến
lược và chính sách, nghiên cứu các lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng
điểm và một số lĩnh vực khác do Nhà nước quy định

Tự chủ về hoạt động khoa học và công nghệ: các tổ chức khoa học và công
nghệ phải có trách nhiệm thực hiện tốt các nhiệm vụ Nhà nước giao; đồng thời tự
chủ tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ khác theo quy định của pháp
luật (liên kết, hợp tác, ký hợp đồng nghiên cứu và dịch vụ khoa học và công
nghệ, chuyển giao công nghệ v.v…).
Tự chủ về tài chính: Nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động để thực hiện nhiệm
vụ Nhà nước giao theo phương thức khoán chi quỹ lương, hoạt động bộ máy và
kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Các tổ chức này được tự chủ
trong việc sử dụng các nguồn thu khác từ hợp đồng khoa học và công nghệ với
các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài.
11

Tự chủ về quản lý nhân sự: thực hiện phân cấp và trao quyền tự chủ nhân sự
cho tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước trên cơ sở thực hiện chế độ
viên chức và hợp đồng lao động đối với cán bộ khoa học và công nghệ. Cơ chế tự
chủ về quản lý nhân sự được quy định cụ thể trong mục 4 “Đổi mới quản lý nhân
lực khoa học và công nghệ” dưới đây.
Tự chủ về quan hệ hợp tác quốc tế: phân cấp mạnh hơn nữa cho các tổ chức
khoa học và công nghệ trong việc cử cán bộ khoa học và công nghệ ra nước
ngoài, thuê chuyên gia nước ngoài thực hiện nghiên cứu, đào tạo, tư vấn khoa
học và công nghệ và đảm nhiệm chức vụ quản lý trong các tổ chức khoa học và
công nghệ thuộc các lĩnh vực do Nhà nước quy định.
Nhà nước giao cho người đứng đầu các tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện
quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của tổ chức.
+ Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt
động theo cơ chế doanh nghiệp
Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ có sản phẩm
gắn với thị trường sang hoạt động theo một trong các hình thức sau: doanh
nghiệp khoa học và công nghệ; doanh nghiệp; tổ chức khoa học và công nghệ tự

trang trải kinh phí.
+ Đẩy mạnh việc xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ

12

Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức khoa học và công
nghệ, tập thể và cá nhân nhà khoa học thành lập, liên doanh với doanh nghiệp
thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ cao thông qua các chính sách ưu
đãi về thuế, tín dụng, thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, đầu tư hạ tầng cơ sở.
+ Thực hiện đánh giá định kỳ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ sử
dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước
Nhà nước quy định chế độ tự đánh giá và bên ngoài đánh giá định kỳ đối với các
tổ chức khoa học và công nghệ sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước theo các
tiêu chuẩn phù hợp với chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí
đầu tư.
Nghiên cứu hình thành loại hình tổ chức đánh giá khoa học và công nghệ độc lập
có chức năng nghiên cứu phương pháp và tổ chức thực hiện việc đánh giá hoạt
động khoa học và công nghệ, đánh giá các tổ chức khoa học và công nghệ, phục
vụ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và quản lý khoa học và công
nghệ và bảo đảm tính khách quan trong việc đánh giá.
+ Phát huy chức năng và nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ của các trường đại học, các viện nghiên cứu.
Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ các trường đại học công nghệ thực hiện
nhiệm vụ ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp

13

khoa học và công nghệ để sớm hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng

dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh.
2. Nhóm giải pháp dựa trên quan điểm phát triển:
a. Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học và
công nghệ
Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nhằm: tăng nguồn tài chính ngoài ngân sách
nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ; nâng cao hiệu quả đầu tư của
Nhà nước cho khoa học và công nghệ; tạo động lực cho tổ chức và cá nhân hoạt
động khoa học và công nghệ.
+ Đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ
Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế và chính sách tài chính khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ quy định trong Nghị định số
119/1999/NĐ-CP của Chính phủ. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ
phát triển khoa học và công nghệ để thực hiện nghiên cứu, ứng dụng kết quả
nghiên cứu phục vụ đổi mới công nghệ và sản phẩm; doanh nghiệp được khấu
hao nhanh đối với tài sản, thiết bị, máy móc; được vay vốn với lãi xuất ưu đãi tại
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, các Quỹ phát triển khoa học và
công nghệ của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tiến hành hoạt động
nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ. Ưu tiên nguồn vốn ODA đầu tư
phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học
14

và công nghệ trọng điểm quốc gia, như: các tổ chức nghiên cứu và phát triển
trọng điểm, các phòng thí nghiệm trọng điểm, các khu công nghệ cao.
+ Đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho hoạt
động khoa học và công nghệ
Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm được xác định
trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, các lĩnh vực nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách và những lĩnh vực công ích do Nhà nước
quy định. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực doanh

nghiệp tăng đầu tư vào các lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ.
+ Hoàn thiện cơ chế sử dụng nguồn tài chính tạo động lực cho hoạt động
khoa học và công nghệ
Áp dụng cơ chế khoán đối với đề tài, dự án khoa học và công nghệ trong một số
lĩnh vực khoa học và công nghệ trên cơ sở thẩm định kỹ về nội dung, sản phẩm
nghiên cứu và dự toán kinh phí thực hiện. Việc thanh, quyết toán kinh phí thực
hiện đề tài, dự án khoa học và công nghệ phải căn cứ vào kết quả đánh giá chất
lượng sản phẩm nghiên cứu là chủ yếu; bãi bỏ các thủ tục thanh, quyết toán
không còn phù hợp trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
b. Thiết lập cơ chế nhanh chóng xõy dựng và thu hút lực lượng nhõn tài
phục vụ sự phát triển khoa học và công nghệ.

15

Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học và công nghệ nhằm phát huy tối đa
tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ; tạo động lực vật
chất và tinh thần, thực hiện chế độ thù lao, đãi ngộ theo mức độ cống hiến và các
chính sách khuyến khích khác đối với cán bộ khoa học và công nghệ.
+ Tăng quyền tự chủ về quản lý nhân lực của các tổ chức khoa học và công
nghệ
Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức khoa học
và công nghệ trong quản lý nhân lực khoa học và công nghệ: quyền tuyển dụng,
đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thôi việc, xếp lương, đãi ngộ đối
với cán bộ, viên chức. Thực hiện cơ chế giám sát việc thực thi quyền và trách
nhiệm của người đứng đầu tổ chức khoa học và công nghệ.
+ Xây dựng cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ khoa học và công
nghệ
Ban hành chính sách trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ tài năng; sử dụng
cán bộ khoa học và công nghệ giỏi; khuyến khích và thu hút người Việt Nam

định cư ở nước ngoài tham gia phát triển khoa học và công nghệ của đất nước. áp
dụng mức thu nhập đặc biệt đối với cán bộ chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
phát triển kinh tế – xã hội. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ, năng lực
chuyên môn ngang bằng chuyên gia nước ngoài, cùng vị trí công tác trong các dự
16

án hợp tác, được hưởng mức thu nhập tương đương với mức thu nhập bình quân
do các tổ chức quốc tế, nước ngoài trả cho người Việt Nam.
+ Tăng cường đào tạo và đào tạo lại nhân lực khoa học và công nghệ
Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích mở các trường đại học, viện nghiên cứu
quốc tế hoặc khu vực tại Việt Nam. Thu hỳt các viện nghiên cứu, trường đại học
có uy tín của nước ngoài liên kết hoặc mở phân viện, phân hiệu hoặc tổ chức các
chương trình đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Khuyến
khớch các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nhân lực
khoa học và công nghệ, nhất là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.
+ Thu hút chuyên gia nước ngoài phục vụ phát triển khoa học và công nghệ
Ban hành chính sách thu hút chuyên gia giỏi là người Việt Nam ở nước ngoài và
chuyên gia nước ngoài tới Việt Nam tham gia công tác đào tạo cán bộ nghiên
cứu, giảng dạy, tư vấn, giữ các chức vụ quản lý nghiên cứu khoa học và công
nghệ.
c. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ
+ Gắn kết đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế, xã hội với thúc đẩy tiến bộ khoa
học và công nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất
và đời sống
17

Xây dựng chương trình liên kết giữa khoa học và công nghệ với đào tạo và sản
xuất, kinh doanh để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý, hiện đại hoá,
đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện việc lấy ý kiến phản biện của các nhà khoa học đối với chủ trương,
chính sách, các dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế, xã hội. Xây dựng cơ
chế lồng ghộp cỏc nhiệm vụ khoa học và công nghệ với các dự án đầu tư, chương
trình phát triển kinh tế – xã hội.
+ Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại hoá của các sản phẩm khoa
học và công nghệ
Dành tỷ lệ thích đáng kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc hỗ trợ hoàn thiện
sản phẩm nghiên cứu có khả năng thương mại hoá. Xây dựng cơ chế đánh giá sau
nghiệm thu và cơ chế hỗ trợ kinh phí để hoàn thiện và thương mại hóa các sản
phẩm nghiên cứu.
Hình thành các tổ chức tư vấn, giám định về chất lượng và giá cả của công nghệ
trước khi chuyển giao hoặc bán cho sản xuất công nghiệp.
+ Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ
Phát triển các tổ chức môi giới công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, các tổ
chức cung cấp thông tin thị trường công nghệ; hình thành các tổ chức xúc tiến thị
trường công nghệ; tổ chức các chợ công nghệ – thiết bị.
18

Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh các dịch vụ môi giới
về thị trường công nghệ.
+ Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển
giao công nghệ
Quy định rõ cơ chế khuyến khích chuyển giao kết quả nghiên cứu có sử dụng
kinh phí từ ngân sách nhà nước theo hướng trao quyền sử dụng cho tổ chức thực
hiện nghiên cứu trong một thời gian hợp lý để khai thác, thương mại hóa kết quả
nghiên cứu. Quy định rõ về thời hạn sử dụng, nghĩa vụ và lợi ích của tổ chức, cá

nhân được trao quyền sử dụng, đặc biệt khi kết quả nghiên cứu có giá trị kinh tế,
xã hội lớn. Sau thời hạn quy định, nếu kết quả nghiên cứu không được áp dụng
thực tiễn hoặc thương mại hoá, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ có thẩm quyền sử dụng dưới dạng hàng hoá, dịch vụ công.
d. Xây dựng cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thu hút mọi hình thức
lực lượng khoa học và công nghệ trong nước cho việc đổi mới khoa học và
công nghệ như một tiêu chuẩn để đỏnh giá chất lượng doanh nghiệp.
+ Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang đi tìm hướng phát triển cho
doanh nghiệp của mình thông qua triển khai việc nghiên cứu khoa học và công
nghệ hoặc đổi mới khoa học và công nghệ bằng việc mua các bản quyền khoa
học và công nghệ. Trong khi có nhiều công trình công trình khoa học trong nước
sau khi nghiên cứu xong trong phòng thí nghiệm thiếu vốn để triển khai ứng
19

dụng. Điều nay đã gây ra lãng phí rất lớn. Do đó nếu có cơ chế ứng dụng thử tại
doanh nghiệp với sự hỗ trợ về tài chính không chỉ từ NSNN mà còn có thể cả
doanh nhiệp nếu như họ nhận được ưu đãi từ kết quả nghiêm cứu và ứng dụng thì
một phần nào sẽ thoát ra được tình trạng trì trệ về KHCN như hiện nay.
e. Xây dựng cơ chế thu hút và liên kết lực lượng khoa học và công nghệ đã
có sẵn ở nước ta thông qua các doanh nghiệp cã vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và lực lượng khoa học và công nghệ là Việt Kiều.
+ Trong thị trường phân công lao động quốc tế nh hiện nay, các nước chậm phát
triển nh nước ta vẫn đang nắm ưu thế về nhân công lao động rẻ, đất đai và các
nguồn lực từ thiên nhiên sẵn có. Hiện nay dong chảy ngày càng tăng nguồn vốn
FDI, sẽ là dòng chảy các công nghệ cao vào nước ta. Các nước đầu tư vào nước
ta họ còn tận dụng lực lượng lao động có tay nghề cao đã được đào tạo cơ bản
chúng ta có thể kết hợp với họ để “ nội địa hoá trí thức”. Ngoài ra chóng ta đang
có một lực lượng lớn các nhà trí trức là người Việt đang sinh sống và làm việc tại
các nước phát triển trên thế giới. Nếu chúng ta có thể thiết lập một cơ chế đãi ngộ

linh hoạt và phù hợp thì đây là nguồn tri thức quý báu cho sự phát triển đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
Đã đến lúc cần và rất cần phải cởi trói cho các cơ chế đang là rào cản do
chính con người đặt ra để giải phóng tiềm năng trí tuệ trong đó quan trọng nhất là
lực lượng khoa học công nghệ. Nhưng đó là vấn đề rất khó và vô cùng phức tạp
vì vấn đề Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ trong thời kỳ hội nhập
20

kinh tế Quốc tế là một vấn đề rất rộng, cần nhiều ý kiến đóng góp để đưa ra một
chương trình hành động manh tính thực thi, đáp ứng được nhu cầu cấp bách về
phát triển KTXH ở nước ta. Do đó việc xây dựng và vận hành cơ chế quản lý
hoạt động khoa học và công nghệ nhất thiết phải dựa trên thế giới quan và
phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin chúng ta mới hi vọng
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong tiến trình rút ngắn khoảng cách về
khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay./.

21

22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học: Nhà xuất bản chớnh trị 2006
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc. Nxb Chớnh trị quốc gia Hà Nội
3. http://www.cpv.org.vn (Báo điện tử Đảng cộng sản Việt nam)

23

Học viện ngân hàng

—–—–

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
(Đối tượng đào tạo cao học)

24

Đề tài:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

HỌ TÊN: HÀ ANH VÒ
LÍP: CAO HỌC 10C

Hà Nội, tháng 6 năm 2009

25

công nghệ ngày này đã trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp và quyếtđịnh tình chất và trình độ tăng trưởng của một nền kinh tế tài chính. Vì thế khoảng cách vềkhoa học và công nghệ giữa những nước có thời cơ được rút ngắn trải qua chuyểngiao công nghệ và tính link giữa những nước trong quy trình hội nhập. 2. Thực trạng hoạt động giải trí quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện naytồn tại nhiều chưa ổn không phân phối được nhu yếu của thời kỳ hội nhập. Với xuất phát điểm là nền khoa học công nghệ thấp kém, quốc gia cũn nghèo … hoàn toàn có thể nhận thấy rằng, hạn chế cơ bản của hoạt động giải trí khoa học và công nghệ hiệnnay là : ” Chưa thực sự kết nối với nhu yếu và hoạt động giải trí của những ngành kinh tế tài chính, xãhội ; chậm đưa vào ứng dụng những hiệu quả đã nghiên cứu và điều tra được ; trình độ khoahọc và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với những nước xung quanh ; năng lượng tạora công nghệ mới còn rất hạn chế. Các cơ quan điều tra và nghiên cứu khoa học chậm đượcsắp xếp cho đồng nhất, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu suất cao thấp. Cácviện điều tra và nghiên cứu và những doanh nghiệp, những trường ĐH chưa kết nối với nhau. Việc góp vốn đầu tư thiết kế xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật thiếu tập trung chuyên sâu và dứt điểm chotừng tiềm năng. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy cũn ớt, songchưa được sử dụng tốt. ” Và dẫn tới những biểu lộ đơn cử sau : – Cơ chế quản lý những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ chưa tương thích với đặc thùcủa lao động phát minh sáng tạo và cơ chế kinh tế thị trường khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. – Cơ chế, chủ trương kinh tế tài chính chưa tạo động lực và điều kiện kèm theo thuận tiện cho tổchức, cá thể hoạt động giải trí khoa học và công nghệ. – Cơ chế đào tạo và giảng dạy, quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực đểphát huy năng lượng phát minh sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ. – Thị Trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm tăng trưởng. – Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầuchuyển sang kinh tế thị trường. – Chính sách quản lý khoa học và công nghệ chưa thống nhất. Chưa phân cấptrong hoạt động giải trí quản lý khoa học một cách khoa học và rõ ràng. – Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chưa có kế hoạch và tầm nhìn tươngứng dẫn tới góp vốn đầu tư giàn trải, thiếu tập trung chuyên sâu, gây tiêu tốn lãng phí lớn. – Thực tế 20 năm qua, chóng ta đã và đang tiến hành sự nghiệp tăng trưởng kinh tếxã hội bỏ lỡ quy trình tiến độ tăng trưởng CNTB đi thẳng lên CNXH nhưng nước ta vẫnlà nước nông nghiệp nghèo nàn với một nền kinh tế tài chính nghèo nàn, lỗi thời, đan xennhiều phương pháp sản xuất : nông nghiệp, công nghiệp và rất Ýt yếu tố hậu côngnghiệp. Các số liệu lấy từ Viện tin tức khoa học ( ISI ) ở Philadelphia theo dõi sự pháttriển khoa học và công nghệ ở những nước trên quốc tế, cho thấy : – Xét về số lượng những khu công trình khoa học công bố, ta ở sau Thailand khoảng chừng 20 năm. – Xét về khunh hướng tăng trưởng, nếu tiếp nối thực trạng này, Nước Ta sẽ càngngày càng thua kém xứ sở của những nụ cười thân thiện. III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝKHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN VỪA QUA. 1. Hoạt động quản lý khoa học và công nghệ thiếu quan điểm tổng lực : – Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực tăng trưởng quốc gia đã đượckhẳng định trong những Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được không cho đầy đủđể chuyển thành hành vi thực tiễn của những cấp chính quyền sở tại, những Bộ, ngành, địaphương trong kiến thiết xây dựng và tổ chức triển khai thực thi những trách nhiệm tăng trưởng kinh tế tài chính – xãhội. Nhiều chủ trương, chủ trương của Đảng và nhà nước về tăng trưởng khoa họcvà công nghệ chậm được thể chế hoá bằng những văn bản quy phạm pháp luật đápứng nhu yếu đổi mới trong thực tiễn ; chỉ huy những cấp thiếu kiên trì, kiên quyếttrong tổ chức triển khai và chỉ huy triển khai đổi mới quản lý khoa học và công nghệ. – Chậm đổi mới tư duy, giải pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điềukiện chuyển sang kinh tế thị trường khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhậpkinh tế quốc tế. Chưa làm rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước về góp vốn đầu tư tăng trưởng đốivới một số ít hoạt động giải trí khoa học và công nghệ như nghiên cứu và điều tra cơ bản, nghiên cứumang tính công ích, nghiên cứu và điều tra kế hoạch, chủ trương tăng trưởng v.v… ; chưa cócơ chế, chủ trương tương thích so với những hoạt động giải trí khoa học và công nghệ cần vàcó thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động giải trí nghiên cứu ứng dụng và pháttriển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ. – Chưa nhìn nhận đúng tầm quan trọng của khoa học xã hội và nhân văn trong việchoạch định kế hoạch và dự báo tăng trưởng. – Chưa coi trọng việc link những lực lượng liên ngành để cùng xử lý những vấnđề trọng điểm của khoa học và công nghệ. – Các chủ trương quản lý khoa học và công nghệ chưa chú trọng nghiên cứu và điều tra khoahọc cơ bản trong khi điều tra và nghiên cứu khoa học ứng dụng còn giàn trải, phân tấn thiếutrọng tâm trọng điểm. 2. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ thiếu quan điểm khách quan : – Việc duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước trải qua những tặng thêm, độcquyền trong nhiều nghành, khiến cho những doanh nghiệp nhà nước ít quan tâmđến điều tra và nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lượng cạnhtranh. Năng lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn chưa ổn, thiếu độingũ cán bộ khoa học và công nghệ trong những doanh nghiệp làm cầu nối cho ứngdụng những tác dụng nghiên cứu và điều tra vào sản xuất. Hệ thống kinh tế tài chính, tiền tệ kém pháttriển cũng không tạo điều kiện kèm theo cho doanh nghiệp tự kêu gọi được nguồn vốn đểđầu tư cho khoa học và công nghệ. – Chính sách tăng trưởng khoa học và công nghệ không xuất phát từ yêu cầu thực tếđòi hỏi của nền kinh tế tài chính mà hầu hết dựa vào khuynh hướng ưu tiên tăng trưởng khoahọc và công nghệ theo ngành và vùng trọng điểm. – Chưa tách biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động giải trí sự nghiệp dẫn đếntình trạng những cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực thi trách nhiệm nghiên cứukhoa học và tăng trưởng công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra vàquy định nghĩa vụ và trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động giải trí khoa học và công nghệ. – Chưa tách biệt giữa cơ quan quản lý khoa học và công nghệ với cơ quan thựchiện hoạt động giải trí nghiên cứu và điều tra khoa học và công nghệ. – Trong việc tuyển dụng, nhìn nhận cán bộ làm công tác làm việc khoa học và công nghệchưa thực sự khách quan. – Các chủ trương về khoa học và công nghệ được đề ra và thực thi Ýt có quátrình phản biện khách quan. 3. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ lúc bấy giờ thiếu quan điểm pháttriển : – Chính sách quản lý về khoa học và công nghệ chưa theo kịp trình độ phát triểnmạnh mẽ của khoa học và công nghệ nên những phát sinh gây lúng túng cho cáccơ quan quan lý. – Việc chuyển giao và tiếp đón khoa học và công nghệ thường xuất phát từ yêucầu tăng trưởng trước mắt mà chưa theo khuynh hướng tăng trưởng của khoa học và côngnghệ dẫn tới việc đảm nhiệm khoa học và công nghệ đã lỗi thời từ bên ngoài. – Chưa gắn tăng trưởng khoa học và công nghệ với quy trình vận động và di chuyển cơ cấukinh tế. – Chưa lấy hiệu suất cao kinh tế tài chính, xã hội để nhìn nhận chất lượng quản lý khoa học vàcông nghệ. – Việc quản lý khoa học và công nghệ chưa tuân theo xu thế hoạt động của cácquy luật khách quan. IV. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ỞNƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY1. Nhóm giải pháp dựa trên quan điểm tổng lực, khách quan : a. Xây dựng cơ chế huấn luyện và đào tạo đội ngũ quản lý khoa học công nghệ năng lực, trong sáng + Do sự hình thành nền kinh tế tri thức nên quốc tế đang diễn ra hàng ngày, hànggiờ sự ganh đua nóng bức về nhân lực, trí tuệ giữa những vương quốc. Để tăng trưởng đấtnước, tất cả chúng ta không hề nằm ngoài xu thế chung đó, do vậy yếu tố huấn luyện và đào tạo vàsử dụng nhân tài trí tuệ một cách hiệu suất cao nhất phải là yếu tố được sự quan tâmđầu tiên. Để làm được điều này tất cả chúng ta cần góp vốn đầu tư thêm cơ sở vật chất, thiết bịcông nghệ cho những trường giảng dạy để nâng cao trình độ và tiếp cận công nghệ mớicho những học viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Đẩy mạnh hơn nữa việcthu hút nhân tài vào những ngành khoa học công nghệ … b. Hoàn thiện cơ chế thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai thực thi trách nhiệm khoa học vàcông nghệ tăng trưởng cả về chiều rộng và chiều sâu : Cơ chế thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệ phải xuấtphát từ trách nhiệm tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội của vương quốc, của những ngành, địaphương ở mỗi thời kỳ. + Phân công, phân cấp rõ ràng trong thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai triển khai nhiệm vụkhoa học và công nghệChính phủ quyết định hành động những khuynh hướng tăng trưởng khoa học và công nghệ trọngđiểm làm cơ sở xác lập trách nhiệm khoa học và công nghệ cấp nhà nước, có tầmquan trọng vương quốc, mang tính liên ngành và dài hạn, Giao hàng tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội, bảo mật an ninh, quốc phòng và nâng cao năng lượng khoa học và công nghệ quốcgia. Thủ tướng nhà nước quyết định hành động những trách nhiệm khoa học và công nghệ trọngđiểm cấp nhà nước, những trách nhiệm khoa học – công nghệ ship hàng trực tiếp cho sựchỉ đạo quản lý và điều hành của nhà nước. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợpvới những Bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thường trực Trung ương và cơquan tương quan kiến thiết xây dựng và tổ chức triển khai thực thi những trách nhiệm khoa học và côngnghệ này, lồng ghép với những chương trình kinh tế tài chính – xã hội. + Hoàn thiện cơ chế kiến thiết xây dựng và tổ chức triển khai triển khai trách nhiệm khoa học vàcông nghệ của Nhà nướcXác định rừ cỏc trách nhiệm khoa học và công nghệ ưu tiên ở những cấp. Cơ quanquản lý nhà nước về khoa học và công nghệ những cấp tổ chức triển khai việc trao đổi giữacác viện, trường, doanh nghiệp và cơ quan hoạch định chủ trương để xác lập cácnhiệm vụ ưu tiên. Đối với những trách nhiệm khoa học và công nghệ mang tính ứng dụng, xuất phát từnhu cầu nâng cao chất lượng, hiệu suất cao, sức cạnh tranh đối đầu của những mẫu sản phẩm, thựchiện cơ chế link giữa tổ chức triển khai khoa học và công nghệ với cơ sở vận dụng kếtquả nghiên cứu và điều tra trong hàng loạt quy trình từ xác lập trách nhiệm, tổ chức triển khai thực thi, nhìn nhận và đưa hiệu quả nghiên cứu và điều tra vào thực tiễn. + Đưa nhanh những hiệu quả nghiên cứu và điều tra khoa học và công nghệ vận dụng vàothực tiễn sản xuất và đời sốngCơ quan quản lý khoa học và công nghệ những cấp có nghĩa vụ và trách nhiệm kiến thiết xây dựng và bảođảm thực thi cơ chế đưa nhanh những hiệu quả nghiên cứu và điều tra khoa học và công nghệáp dụng vào thực tiễn. Tổ chức và cá thể thực thi trách nhiệm khoa học và côngnghệ có nghĩa vụ và trách nhiệm thực thi những lao lý về lưu giữ, bảo mật thông tin, phổ cập và sửdụng và chuyển giao hiệu quả điều tra và nghiên cứu khoa học và công nghệ. Các doanhnghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tài chính có nghĩa vụ và trách nhiệm góp vốn đầu tư cho nghiên cứu và điều tra và đổimới công nghệ nhằm mục đích nâng cao chất lượng mẫu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, tăngcường năng lực cạnh tranh đối đầu của doanh nghiệp. Nhà nước phát hành những chính sáchkhuyến khích và thôi thúc những doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tài chính đổimới công nghệ. c. Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin khoa học một cách mạng lưới hệ thống, hiệu quảnhằm link được lực lượng liên ngành để xử lý những vần đề khoa họcvà công nghệ trọng điểm. + Hiện nay, thông tin khoa học và công nghệ của những ngành tuy nhiều nhưng rấttản mạn không đi vào những yếu tố đơn cử cần xử lý mà chỉ nói chungchung. Trong thực trạng vẫn còn cơ chế độc quyền thì những văn minh KHCN mangtính mạng lưới hệ thống liên ngành rất khó được xâm nhập vào những ngành sản xuất, đặc biệtlà những ngành được góp vốn đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước. Các nhà khoa học ngoàingành rất kho tiếp cận nếu không có cơ chế trao đổi thông tin tương thích. Thực tếcác tân tiến KHCN, những ý tưởng muốn được ghi nhận là có góp phần choKTXH của quốc gia đang đứng trước việc phải tự đi tìm nơi ứng dụng trong mộtcơ chế lẫn lộn giữa thị trường và hành chính quan liêu. d. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động giải trí của những tổ chức triển khai khoa học và côngnghệ10Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động giải trí của những tổ chức triển khai khoa học và công nghệnhằm tạo điều kiện kèm theo thuận tiện phát huy tối đa tính dữ thế chủ động, phát minh sáng tạo và nâng caohiệu quả hoạt động giải trí của tổ chức triển khai, cá thể hoạt động giải trí khoa học và công nghệ ; xâydựng 1 số ít tổ chức triển khai khoa học và công nghệ của Nhà nước đạt trình độ tiên tiếntrong khu vực thuộc những nghành trọng điểm được xác lập trong Chiến lược pháttriển khoa học và công nghệ đến năm 2010 ; tăng cường mối link giữa nghiêncứu – huấn luyện và đào tạo – sản xuất. + Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm so với những tổ chức triển khai khoa họcvà công nghệ của Nhà nước hoạt động giải trí nghiên cứu và điều tra cơ bản, nghiên cứu và điều tra chiếnlược và chủ trương, điều tra và nghiên cứu những nghành khoa học và công nghệ trọngđiểm và một số ít nghành nghề dịch vụ khác do Nhà nước quy địnhTự chủ về hoạt động giải trí khoa học và công nghệ : những tổ chức triển khai khoa học và côngnghệ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm triển khai tốt những trách nhiệm Nhà nước giao ; đồng thời tựchủ thực thi những hoạt động giải trí khoa học và công nghệ khác theo pháp luật của phápluật ( link, hợp tác, ký hợp đồng nghiên cứu và điều tra và dịch vụ khoa học và côngnghệ, chuyển giao công nghệ v.v… ). Tự chủ về kinh tế tài chính : Nhà nước bảo vệ kinh phí đầu tư hoạt động giải trí để triển khai nhiệmvụ Nhà nước giao theo phương pháp khoán chi quỹ lương, hoạt động giải trí cỗ máy vàkinh phí thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệ. Các tổ chức triển khai này được tự chủtrong việc sử dụng những nguồn thu khác từ hợp đồng khoa học và công nghệ vớicác tổ chức triển khai, cá thể thuộc mọi thành phần kinh tế tài chính trong nước và quốc tế. 11T ự chủ về quản lý nhân sự : thực thi phân cấp và trao quyền tự chủ nhân sựcho tổ chức triển khai khoa học và công nghệ của Nhà nước trên cơ sở thực thi chế độviên chức và hợp đồng lao động so với cán bộ khoa học và công nghệ. Cơ chế tựchủ về quản lý nhân sự được lao lý đơn cử trong mục 4 ” Đổi mới quản lý nhânlực khoa học và công nghệ ” dưới đây. Tự chủ về quan hệ hợp tác quốc tế : phân cấp mạnh hơn nữa cho những tổ chứckhoa học và công nghệ trong việc cử cán bộ khoa học và công nghệ ra nướcngoài, thuê chuyên viên quốc tế thực thi điều tra và nghiên cứu, huấn luyện và đào tạo, tư vấn khoahọc và công nghệ và đảm nhiệm chức vụ quản lý trong những tổ chức triển khai khoa học vàcông nghệ thuộc những nghành nghề dịch vụ do Nhà nước pháp luật. Nhà nước giao cho người đứng đầu những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ thực hiệnquyền tự chủ và chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về hàng loạt hoạt động giải trí của tổ chức triển khai. + Chuyển những tổ chức triển khai nghiên cứu ứng dụng và tăng trưởng công nghệ sang hoạtđộng theo cơ chế doanh nghiệpChuyển những tổ chức triển khai nghiên cứu ứng dụng và tăng trưởng công nghệ có sản phẩmgắn với thị trường sang hoạt động giải trí theo một trong những hình thức sau : doanhnghiệp khoa học và công nghệ ; doanh nghiệp ; tổ chức triển khai khoa học và công nghệ tựtrang trải kinh phí đầu tư. + Đẩy mạnh việc xã hội hoá hoạt động giải trí khoa học và công nghệ12Nhà nước khuyến khích những thành phần kinh tế tài chính, những tổ chức triển khai khoa học và côngnghệ, tập thể và cá thể nhà khoa học xây dựng, liên kết kinh doanh với doanh nghiệpthành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ cao trải qua những chủ trương ưuđãi về thuế, tín dụng thanh toán, xây dựng quỹ góp vốn đầu tư mạo hiểm, góp vốn đầu tư hạ tầng cơ sở. + Thực hiện nhìn nhận định kỳ so với những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ sửdụng kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nướcNhà nước pháp luật chính sách tự nhìn nhận và bên ngoài nhìn nhận định kỳ so với cáctổ chức khoa học và công nghệ sử dụng kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước theo cáctiêu chuẩn tương thích với chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu suất cao sử dụng kinh phíđầu tư. Nghiên cứu hình thành mô hình tổ chức triển khai nhìn nhận khoa học và công nghệ độc lậpcó công dụng nghiên cứu và điều tra giải pháp và tổ chức triển khai triển khai việc nhìn nhận hoạtđộng khoa học và công nghệ, nhìn nhận những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ, phụcvụ nhu yếu nâng cao chất lượng, hiệu suất cao hoạt động giải trí và quản lý khoa học và côngnghệ và bảo vệ tính khách quan trong việc nhìn nhận. + Phát huy công dụng và nâng cao hiệu suất cao điều tra và nghiên cứu khoa học và côngnghệ của những trường ĐH, những viện điều tra và nghiên cứu. Xây dựng cơ chế, chủ trương tương hỗ những trường ĐH công nghệ thực hiệnnhiệm vụ ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp, đặc biệt quan trọng là doanh nghiệp13khoa học và công nghệ để sớm hình thành những doanh nghiệp vừa và nhỏ ứngdụng hiệu quả nghiên cứu và điều tra khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh thương mại. 2. Nhóm giải pháp dựa trên quan điểm tăng trưởng : a. Đổi mới cơ chế, chủ trương góp vốn đầu tư kinh tế tài chính cho hoạt động giải trí khoa học vàcông nghệĐổi mới cơ chế, chủ trương kinh tế tài chính nhằm mục đích : tăng nguồn kinh tế tài chính ngoài ngân sáchnhà nước cho tăng trưởng khoa học và công nghệ ; nâng cao hiệu suất cao góp vốn đầu tư củaNhà nước cho khoa học và công nghệ ; tạo động lực cho tổ chức triển khai và cá thể hoạtđộng khoa học và công nghệ. + Đa dạng hoá nguồn vốn góp vốn đầu tư cho khoa học và công nghệTiếp tục triển khai xong những cơ chế và chủ trương kinh tế tài chính khuyến khích doanhnghiệp góp vốn đầu tư vào hoạt động giải trí khoa học và công nghệ lao lý trong Nghị định số119 / 1999 / NĐ-CP của nhà nước. Khuyến khích doanh nghiệp xây dựng Quỹphát triển khoa học và công nghệ để thực thi điều tra và nghiên cứu, ứng dụng kết quảnghiên cứu Giao hàng đổi mới công nghệ và loại sản phẩm ; doanh nghiệp được khấuhao nhanh so với gia tài, thiết bị, máy móc ; được vay vốn với lãi xuất khuyễn mãi thêm tạiQuỹ tăng trưởng khoa học và công nghệ vương quốc, những Quỹ tăng trưởng khoa học vàcông nghệ của Bộ, tỉnh, thành phố thường trực Trung ương để thực thi hoạt độngnghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ. Ưu tiên nguồn vốn ODA đầu tưphát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, đặc biệt quan trọng trong những nghành khoa học14và công nghệ trọng điểm vương quốc, như : những tổ chức triển khai điều tra và nghiên cứu và phát triểntrọng điểm, những phòng thí nghiệm trọng điểm, những khu công nghệ cao. + Đổi mới chủ trương góp vốn đầu tư và cơ chế phân chia ngân sách nhà nước cho hoạtđộng khoa học và công nghệNgân sách nhà nước tập trung chuyên sâu góp vốn đầu tư vào những nghành trọng điểm được xác địnhtrong Chiến lược tăng trưởng khoa học và công nghệ, những nghành nghề dịch vụ điều tra và nghiên cứu cơbản, điều tra và nghiên cứu kế hoạch, chủ trương và những nghành nghề dịch vụ công ích do Nhà nướcquy định. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tài chính, đặc biệt quan trọng là khu vực doanhnghiệp tăng góp vốn đầu tư vào những nghành nghiên cứu và điều tra, tăng trưởng và đổi mới công nghệ. + Hoàn thiện cơ chế sử dụng nguồn kinh tế tài chính tạo động lực cho hoạt độngkhoa học và công nghệÁp dụng cơ chế khoán so với đề tài, dự án Bất Động Sản khoa học và công nghệ trong một sốlĩnh vực khoa học và công nghệ trên cơ sở thẩm định và đánh giá kỹ về nội dung, sản phẩmnghiên cứu và dự trù kinh phí đầu tư thực thi. Việc thanh, quyết toán kinh phí đầu tư thựchiện đề tài, dự án Bất Động Sản khoa học và công nghệ phải địa thế căn cứ vào hiệu quả nhìn nhận chấtlượng mẫu sản phẩm điều tra và nghiên cứu là hầu hết ; bãi bỏ những thủ tục thanh, quyết toánkhông còn tương thích trong triển khai trách nhiệm khoa học và công nghệ. b. Thiết lập cơ chế nhanh gọn xõy dựng và lôi cuốn lực lượng nhõn tàiphục vụ sự tăng trưởng khoa học và công nghệ. 15 Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học và công nghệ nhằm mục đích phát huy tối đatiềm năng phát minh sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ ; tạo động lực vậtchất và ý thức, triển khai chính sách thù lao, đãi ngộ theo mức độ góp sức và cácchính sách khuyến khích khác so với cán bộ khoa học và công nghệ. + Tăng quyền tự chủ về quản lý nhân lực của những tổ chức triển khai khoa học và côngnghệTăng cường quyền hạn và nghĩa vụ và trách nhiệm của người đứng đầu những tổ chức triển khai khoa họcvà công nghệ trong quản lý nhân lực khoa học và công nghệ : quyền tuyển dụng, huấn luyện và đào tạo, sắp xếp sử dụng, chỉ định, không bổ nhiệm, thôi việc, xếp lương, đãi ngộ đốivới cán bộ, viên chức. Thực hiện cơ chế giám sát việc thực thi quyền và tráchnhiệm của người đứng đầu tổ chức triển khai khoa học và công nghệ. + Xây dựng cơ chế, chủ trương tạo động lực cho cán bộ khoa học và côngnghệBan hành chính sách trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ kĩ năng ; sử dụngcán bộ khoa học và công nghệ giỏi ; khuyến khích và lôi cuốn người Việt Namđịnh cư ở quốc tế tham gia tăng trưởng khoa học và công nghệ của quốc gia. ápdụng mức thu nhập đặc biệt quan trọng so với cán bộ chủ trì triển khai trách nhiệm khoa họcvà công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt quan trọng trong những nghành nghề dịch vụ quốc phòng, bảo mật an ninh, tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ, năng lựcchuyên môn ngang bằng chuyên viên quốc tế, cùng vị trí công tác làm việc trong những dự16án hợp tác, được hưởng mức thu nhập tương tự với mức thu nhập bình quândo những tổ chức triển khai quốc tế, quốc tế trả cho người Nước Ta. + Tăng cường huấn luyện và đào tạo và huấn luyện và đào tạo lại nhân lực khoa học và công nghệTạo điều kiện kèm theo thuận tiện khuyến khích mở những trường ĐH, viện nghiên cứuquốc tế hoặc khu vực tại Nước Ta. Thu hỳt những viện điều tra và nghiên cứu, trường đại họccó uy tín của quốc tế link hoặc mở phân viện, phân hiệu hoặc tổ chức triển khai cácchương trình đào tạo và giảng dạy nhân lực khoa học và công nghệ tại Nước Ta. Khuyếnkhớch những thành phần kinh tế tài chính tham gia trực tiếp vào quy trình giảng dạy nhân lựckhoa học và công nghệ, nhất là khu vực kinh tế tài chính tư nhân và khu vực kinh tế tài chính có vốnđầu tư quốc tế. + Thu hút chuyên viên quốc tế ship hàng tăng trưởng khoa học và công nghệBan hành chính sách lôi cuốn chuyên viên giỏi là người Nước Ta ở quốc tế vàchuyên gia quốc tế tới Nước Ta tham gia công tác làm việc đào tạo và giảng dạy cán bộ nghiêncứu, giảng dạy, tư vấn, giữ những chức vụ quản lý nghiên cứu và điều tra khoa học và côngnghệ. c. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ + Gắn kết đổi mới cơ chế, chủ trương kinh tế tài chính, xã hội với thôi thúc tân tiến khoahọc và công nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuấtvà đời sống17Xây dựng chương trình link giữa khoa học và công nghệ với đào tạo và giảng dạy và sảnxuất, kinh doanh thương mại để tương hỗ doanh nghiệp nâng cao năng lượng quản lý, hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lượng cạnh tranh đối đầu và hội nhập kinh tế tài chính quốc tế. Thực hiện việc lấy quan điểm phản biện của những nhà khoa học so với chủ trương, chủ trương, những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư, chương trình tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội. Xây dựng cơchế lồng ghộp cỏc trách nhiệm khoa học và công nghệ với những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư, chươngtrình tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. + Nâng cao chất lượng và năng lực thương mại hoá của những mẫu sản phẩm khoahọc và công nghệDành tỷ suất thích đáng kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước cho việc tương hỗ hoàn thiệnsản phẩm nghiên cứu và điều tra có năng lực thương mại hoá. Xây dựng cơ chế nhìn nhận saunghiệm thu và cơ chế tương hỗ kinh phí đầu tư để triển khai xong và thương mại kinh doanh hóa những sảnphẩm nghiên cứu và điều tra. Hình thành những tổ chức triển khai tư vấn, giám định về chất lượng và Ngân sách chi tiêu của công nghệtrước khi chuyển giao hoặc bán cho sản xuất công nghiệp. + Phát triển những tổ chức triển khai trung gian, môi giới công nghệPhát triển những tổ chức triển khai môi giới công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, những tổchức phân phối thông tin thị trường công nghệ ; hình thành những tổ chức triển khai triển khai thịtrường công nghệ ; tổ chức triển khai những chợ công nghệ – thiết bị. 18K huyến khích mọi thành phần kinh tế tài chính tham gia kinh doanh thương mại những dịch vụ môi giớivề thị trường công nghệ. + Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực hiện hành của pháp lý về sở hữu trí tuệ và chuyểngiao công nghệQuy định rõ cơ chế khuyến khích chuyển giao tác dụng điều tra và nghiên cứu có sử dụngkinh phí từ ngân sách nhà nước theo hướng trao quyền sử dụng cho tổ chức triển khai thựchiện điều tra và nghiên cứu trong một thời hạn hài hòa và hợp lý để khai thác, thương mại hóa kết quảnghiên cứu. Quy định rõ về thời hạn sử dụng, nghĩa vụ và trách nhiệm và quyền lợi của tổ chức triển khai, cánhân được trao quyền sử dụng, đặc biệt quan trọng khi tác dụng điều tra và nghiên cứu có giá trị kinh tế tài chính, xã hội lớn. Sau thời hạn lao lý, nếu hiệu quả điều tra và nghiên cứu không được áp dụngthực tiễn hoặc thương mại hoá, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và côngnghệ có thẩm quyền sử dụng dưới dạng hàng hoá, dịch vụ công. d. Xây dựng cơ chế khuyến khích những doanh nghiệp lôi cuốn mọi hình thứclực lượng khoa học và công nghệ trong nước cho việc đổi mới khoa học vàcông nghệ như một tiêu chuẩn để đỏnh giá chất lượng doanh nghiệp. + Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp Nước Ta đang đi tìm hướng tăng trưởng chodoanh nghiệp của mình trải qua tiến hành việc điều tra và nghiên cứu khoa học và côngnghệ hoặc đổi mới khoa học và công nghệ bằng việc mua những bản quyền khoahọc và công nghệ. Trong khi có nhiều khu công trình khu công trình khoa học trong nướcsau khi nghiên cứu và điều tra xong trong phòng thí nghiệm thiếu vốn để tiến hành ứng19dụng. Điều nay đã gây ra tiêu tốn lãng phí rất lớn. Do đó nếu có cơ chế ứng dụng thử tạidoanh nghiệp với sự tương hỗ về kinh tế tài chính không chỉ từ NSNN mà còn hoàn toàn có thể cảdoanh nhiệp nếu như họ nhận được khuyễn mãi thêm từ tác dụng nghiêm cứu và ứng dụng thìmột phần nào sẽ thoát ra được thực trạng ngưng trệ về KHCN như lúc bấy giờ. e. Xây dựng cơ chế lôi cuốn và link lực lượng khoa học và công nghệ đãcó sẵn ở nước ta trải qua những doanh nghiệp cã vốn góp vốn đầu tư trực tiếp nướcngoài và lực lượng khoa học và công nghệ là Việt Kiều. + Trong thị trường phân công lao động quốc tế nh lúc bấy giờ, những nước chậm pháttriển nh nước ta vẫn đang nắm lợi thế về nhân công lao động rẻ, đất đai và cácnguồn lực từ vạn vật thiên nhiên sẵn có. Hiện nay dong chảy ngày càng tăng nguồn vốnFDI, sẽ là dòng chảy những công nghệ cao vào nước ta. Các nước góp vốn đầu tư vào nướcta họ còn tận dụng lực lượng lao động có kinh nghiệm tay nghề cao đã được đào tạo và giảng dạy cơ bảnchúng ta hoàn toàn có thể tích hợp với họ để “ nội địa hoá tri thức ”. Ngoài ra chóng ta đangcó một lực lượng lớn những nhà trí trức là người Việt đang sinh sống và thao tác tạicác nước tăng trưởng trên quốc tế. Nếu tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thiết lập một cơ chế đãi ngộlinh hoạt và tương thích thì đây là nguồn tri thức quý báu cho sự tăng trưởng đất nướctrong tiến trình lúc bấy giờ. Đã đến lúc cần và rất cần phải cởi trói cho những cơ chế đang là rào cản dochính con người đặt ra để giải phóng tiềm năng trí tuệ trong đó quan trọng nhất làlực lượng khoa học công nghệ. Nhưng đó là yếu tố rất khó và vô cùng phức tạpvì yếu tố Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ trong thời kỳ hội nhập20kinh tế Quốc tế là một yếu tố rất rộng, cần nhiều quan điểm góp phần để đưa ra mộtchương trình hành vi manh tính thực thi, cung ứng được nhu yếu cấp bách vềphát triển KTXH ở nước ta. Do đó việc thiết kế xây dựng và quản lý và vận hành cơ chế quản lýhoạt động khoa học và công nghệ nhất thiết phải dựa trên thế giới quan vàphương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin tất cả chúng ta mới hi vọngtiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chãi trong tiến trình rút ngắn khoảng cách vềkhoa học và công nghệ ở nước ta lúc bấy giờ. /. 2122DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Giáo trình triết học : Nhà xuất bản chớnh trị 20062. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn nước. Nxb Chớnh trị quốc gia Hà Nội3. http://www.cpv.org.vn ( Báo điện tử Đảng cộng sản Việt nam ) 23H ọc viện ngân hàng nhà nước —–    —– TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ( Đối tượng đào tạo và giảng dạy cao học ) 24 Đề tài : MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌCVÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAYHỌ TÊN : HÀ ANH VÒLÍP : CAO HỌC 10CH à Nội, tháng 6 năm 200925