Louis Pasteur -‘vị ân nhân của nhân loại’

Ngày 28/9/1895, trái tim của Louis Pasteur – một trong những nhà bác học có góp sức to lớn nhất cho trái đất đã ngừng đập .

Song những phát minh của ông được nhân loại đánh giá là mở đầu cho sự phát triển của nền y học hiện đại. Nhân loại mãi nhớ về ông như một nhà bác học xuất sắc, một nhân cách lớn đáng học tập.

Nhà bác học Louis Pasteur.

Louis Paster sinh ngày 27/12/1822 tại thành phố Dole, miền Tây nước Pháp. Sau khi tốt nghiệp hạng ưu tại trường Đại học Besancon, năm 1943, Paster tiếp tục theo học vật lý và hóa học tại Đại học Bách khoa Paris, rồi bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ Khoa học.

Nhà bác học xuất sắc

Năm 1848, Louis Pasteur bắt đầu khảo sát hai loại tinh thể axít tartaric được tạo thành bên trong thùng rượu nho khi nước nho lên men. Ông phát hiện ra rằng, một loại dung dịch axít làm lệch ánh sáng trong khi loại thứ hai không có đặc tính đó. Đó là do hai loại axít trên có một mặt nhỏ khác nhau về độ dốc.

Từ kết quả nghiên cứu đó, ông đã đề ra định luật về tính bất phân đối xứng, trong đó ông khẳng định: các phân tử bất đối xứng luôn là sản phẩm của sinh thể sống. Công trình của ông đã trở thành cơ sở cho một ngành khoa học mới – ngành hóa học lập thể.

Vào thời kỳ bấy giờ, để sản xuất rượu, người ta thường cho men vào nước nho hoặc một loại dung dịch củ cải đường, nhưng có những mẻ dung dịch sau khi được lên men lại trở thành dấm chua. Để khắc phục tình trạng này, Pasteur bắt đầu nghiên cứu về sự lên men của rượu.

Qua kính hiển vi, ông nhận thấy rằng, các tế bào men rượu ở dạng hình tròn rất nhỏ, nó có thể sinh sôi nẩy nở, ngay cả trong một môi trường nhân tạo thiếu khí oxy, nhưng trong dung dịch bị hư hỏng, các tế bào hình tròn đó đã bị các tế bào hình que lấn át.

Không dừng lại ở đó, ông tiếp tục nghiên cứu về dung dịch sữa là thứ dễ bị hư hỏng. Louis Pasteur cũng thấy sữa trở nên chua khi có nhiều loại tế bào hình que, loại đã thấy trong dung dịch củ cải đường bị hư hỏng. Từ đó, ông khẳng định, sự lên men là do các vi sinh vật gây nên.

Từ thành công này, Pasteur tiếp tục mở rộng các thí nghiệm và đã chứng minh được rằng: vi sinh vật, vi trùng ở trong không khí chính là nguyên nhân gây hư hỏng các dung dịch như nước đường, sữa, nước canh,… và để bảo quản các dung dịch đó cần phải khử trùng. Nhờ phương pháp khử trùng Pasteur, ngày nay, các thực phẩm có thể lưu trữ được lâu hơn.

Các công trình nghiên cứu về vi sinh vật, vi trùng của ông đã mở đường cho nhiều nhà khoa học khác tìm kiếm các vi trùng tại các phạm vi khác nhau.

Đối với ông, “Khoa học không có biên giới, bởi nó là tài sản của nhân loại, là ngọn đuốc soi đường cho thế giới, nhưng những nhà khoa học thì luôn thuộc về tổ quốc của họ”.

Năm 1868, do gặp nhiều biến cố đau thương trong cuộc đời, Pasteur đã bị tai biến mạch máu não. Những tưởng nhà bác học qua đời, nhưng chỉ 3 tháng sau, mặc dù bị liệt một phần thân thể, ông vẫn trở lại với những công trình nghiên cứu mới về bệnh truyền nhiễm.

Và ông đã hoàn thành những công trình vĩ đại nhất của đời mình như: tìm ra nguyên nhân gây bệnh truyền nhiễm ở súc vật như: bệnh tằm, bệnh dịch tả gà, bệnh chó dại…

Ông đã tìm được vắcxin để chủng ngừa các bệnh bệnh dịch tả gà, bệnh than, đặc biệt là bệnh chó dại. Ngày 6/7/1885, cậu bé Joseph Meister đã trở thành người đầu tiên được chủng ngừa bệnh dại và đã hoàn toàn bình phục sau 10 ngày.

Từ thành công ban đầu này, chỉ trong vòng 1 năm, đã có hơn 2.500 người, chiếm khoảng 99,5% bệnh nhân bị chó dại cắn được chủng ngừa và cứu sống.

Song những phát minh của ông được trái đất nhìn nhận là mở màn cho sự tăng trưởng của nền y học văn minh. Nhân loại mãi nhớ về ông như một nhà bác học xuất sắc, một nhân cách lớn đáng học tập. Louis Paster sinh ngày 27/12/1822 tại thành phố Dole, miền Tây nước Pháp. Sau khi tốt nghiệp hạng ưu tại trường Đại học Besancon, năm 1943, Paster liên tục theo học vật lý và hóa học tại Đại học Bách khoa Paris, rồi bảo vệ thành công xuất sắc luận án Tiến sỹ Khoa học. Năm 1848, Louis Pasteur khởi đầu khảo sát hai loại tinh thể axít tartaric được tạo thành bên trong thùng rượu nho khi nước nho lên men. Ông phát hiện ra rằng, một loại dung dịch axít làm lệch ánh sáng trong khi loại thứ hai không có đặc tính đó. Đó là do hai loại axít trên có một mặt nhỏ khác nhau về độ dốc. Từ tác dụng điều tra và nghiên cứu đó, ông đã đề ra định luật về tính bất phân đối xứng, trong đó ông khẳng định chắc chắn : những phân tử bất đối xứng luôn là loại sản phẩm của sinh thể sống. Công trình của ông đã trở thành cơ sở cho một ngành khoa học mới – ngành hóa học lập thể. Vào thời kỳ bấy giờ, để sản xuất rượu, người ta thường cho men vào nước nho hoặc một loại dung dịch củ cải đường, nhưng có những mẻ dung dịch sau khi được lên men lại trở thành dấm chua. Để khắc phục thực trạng này, Pasteur mở màn nghiên cứu và điều tra về sự lên men của rượu. Qua kính hiển vi, ông nhận thấy rằng, những tế bào men rượu ở dạng hình tròn rất nhỏ, nó hoàn toàn có thể sinh sôi nẩy nở, ngay cả trong một môi trường tự nhiên tự tạo thiếu khí oxy, nhưng trong dung dịch bị hư hỏng, những tế bào hình tròn trụ đó đã bị những tế bào hình que ép chế. Không dừng lại ở đó, ông liên tục điều tra và nghiên cứu về dung dịch sữa là thứ dễ bị hư hỏng. Louis Pasteur cũng thấy sữa trở nên chua khi có nhiều loại tế bào hình que, loại đã thấy trong dung dịch củ cải đường bị hư hỏng. Từ đó, ông chứng minh và khẳng định, sự lên men là do những vi sinh vật gây nên. Từ thành công xuất sắc này, Pasteur liên tục lan rộng ra những thí nghiệm và đã chứng tỏ được rằng : vi sinh vật, vi trùng ở trong không khí chính là nguyên do gây hư hỏng những dung dịch như nước đường, sữa, nước canh, … và để dữ gìn và bảo vệ những dung dịch đó cần phải khử trùng. Nhờ chiêu thức khử trùng Pasteur, thời nay, những thực phẩm hoàn toàn có thể tàng trữ được lâu hơn. Các khu công trình điều tra và nghiên cứu về vi sinh vật, vi trùng của ông đã mở đường cho nhiều nhà khoa học khác tìm kiếm những vi trùng tại những khoanh vùng phạm vi khác nhau. Năm 1868, do gặp nhiều biến cố đau thương trong cuộc sống, Pasteur đã bị tai biến mạch máu não. Những tưởng nhà bác học qua đời, nhưng chỉ 3 tháng sau, mặc dầu bị liệt một phần thân thể, ông vẫn trở lại với những khu công trình điều tra và nghiên cứu mới về bệnh truyền nhiễm. Và ông đã hoàn thành xong những khu công trình vĩ đại nhất của đời mình như : tìm ra nguyên do gây bệnh truyền nhiễm ở súc vật như : bệnh tằm, bệnh dịch tả gà, bệnh chó dại … Ông đã tìm được vắcxin để chủng ngừa những bệnh bệnh dịch tả gà, bệnh than, đặc biệt quan trọng là bệnh chó dại. Ngày 6/7/1885, cậu bé Joseph Meister đã trở thành người tiên phong được chủng ngừa bệnh dại và đã trọn vẹn bình phục sau 10 ngày. Từ thành công xuất sắc khởi đầu này, chỉ trong vòng 1 năm, đã có hơn 2.500 người, chiếm khoảng chừng 99,5 % bệnh nhân bị chó dại cắn được chủng ngừa và cứu sống .