Phát minh ra tên lửa

Nếu hình như người ta không chút nghi hoài nghi vật bắn ra được phát minh ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Nước Trung Hoa, thì niên đại và những điều kiện kèm theo đã phát minh ra nó lại không được xác lập một cách chắc như đinh. Không phải vì không có dẫn chứng bằng diễn ngôn, mà vì không hề biết những sử biên niên và những tài liệu miêu tả thời đó là nói về những dụng cụ để phóng hỏa, mang theo chất cháy, nhưng được phóng đi bằng cung, nỏ hoặc máy móc khác hay đúng là nói về vật bắn ra thực sự được đẩy bằng cách phụt khí, do thuốc nổ tạo ra .

Lịch sử tiến lên của vật bắn ra

Thật vậy, người ta hạn định được rằng hỏa tiễn mà diễn ngôn cổ nhất nhắc đến, thực ra chỉ là những mũi tên mang chất cháy. Nếu chỉ dựa vào những bằng chứng hòan toàn xác thực, thì hình như pháo bông kiểu vật bắn ra, dạng áp dụng đầu tiên của sức đẩy của thuốc pháo, đã trở thành cuộc thi đấu dân ca ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa trong triều đại Đường (618-907).

Bạn đang đọc: Phát minh ra tên lửa

Còn việc điều chỉnh chính sức đẩy ấy để phóng mũi lao tới quân thù thì việc đó được xác nhận bởi nhiều chuyện kể về những trận đánh của người Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa chống Mông Cổ trong thế kỉ XIII. Nói riêng, trong cuộc bao vây kinh thành Khai Phong của họ, người Tàu đã áp dụng thành công những hỏa tiễn đẩy một vật bắn ra nhỏ, gồm ống tre chứa đầy thuốc pháo và buộc vào gần đầu nhọn, lỗ hở hướng về nơi lắp cánh đuôi hỏa tiễn.

Phát minh ra vật bắn ra

Chính những người Mông Cổ đã phổ biến kĩ thuật vật bắn ra ra hầu khắp mọi nơi, trong các phong trào của họ. Nói riêng, họ đã áp dụng chúng gần Budapest năm 1241, rồi ở Bagdad năm 1251.

Nhưng chủ yếu lại qua người Arập mà người châu Âu biết đến thuốc súng lẫn vật bắn ra. Tuy Albert le Grand đã cho công thức làm “lửa bay” trong quyển sách “Về những điều kì diệu về thế giới” của ông, nhưng lại nhờ Marcus Graecus hay Marc le Grec (Marc người dân Hy Lạp) mà chúng ta có một bản mô tả tiểu tiết vật bắn ra, trong cuốn Sách về những ngọn lửa để đốt quân thù của ông. Cuốn sách có lẽ đã xuất hiện dự trữảng từ 1225 đến 1250, hoặc 1270. Chúng ta cũng nhận ra rằng, trong số các nhà tiên phong về kĩ thuật vật bắn ra thời Trung cổ, thì người Italia là Muratori từ 1379 đã dùng thuật ngữ rochetta, được cư dân Pháp trở thành roquette, rồi đến người Anh lại thành rocket.

Trong nhiều thế kỉ, vật bắn ra không tiến thêm chút nào. Chủ nghĩa thưởng thức mạnh nhất vẫn ngự trị trong việc sản xuất vỏ đạn mà phấn cuối làm trách nhiệm của ống phụt, có hiệu suất thảm hại .
Từ cuối thế kỉ XVII, để làm tiết mục trọng tâm cho buổi xạ kícho bông, người ta sửdụng những vật bắn ra mạnh hơn, hoàn toàn có thể đưa một trọng tải lên cao, đa phần là những lá cờ và nhiều vật nhỏ khác, sau khi được phóng lên khoảng chừng không, sẽ lần lượt rơi xuống đất. Đó đây người ta vẫn có ý đồ buộc vào đó một con vật nhỏ, cho nó rơi xuống – ôi, xiết bao kinh hoàng – treo lửng lơ vào một dù nhảy sơ sài .

Năm 1804, sĩ quan Anh William Congreve trở về từ Cộng hoà Ấn Độ, nơi mà ông đã phải chịu đựng những cuộc tấn công chết người của những vật bắn ra của Tippoo Sahib, quốc vương Hồi giáo cuối cùng của Mysore, xui khiến được chính quyền của hoàng đế Anh uỷ thác ông công việc mà sau nàu sẽ là cuộc nghiên cứu thuần lí về vật bắn ra quân sự đầu tiên. Ông hoàn chỉnh được một mẫu nặng 15 kg, có tầm xa từ 2500 đến 3000 m, sau đó hai nghìn biến thiên được xông vào thành phố Boulogne từ 1806. Ngay lập tức, các siêu cường khác quyên tâm tới thứ vũ khí mà họ đã áp dụng lẻ tẻ trong quá khứ đó, và nhiều tiến bộ đã đạt được hầu như ở khắp mọi nơi. Nhưng, vào giữa thế kỉ XIX, vật bắn ra chiến tranh dùng thuốc súng đã bị thế chỗ bởi đạn đại bác.

Năm 1898, môn lịch sử lâu dài của vật bắn ra đầy thăng trầm đã có một bước ngoặt quyết định. Một người giáo viên Nga không danh tiếng, Constantin Tsiolkovski đặt trụ sở cơ quan khoa học cho ngành du hành vũ trụ dựa trên việc áp dụng đẩy vật bắn ra dùng chất đốt lỏng. Công lao của người giáo viên tỉnh Caluga lại càng lớn, vì các chất lỏng mà ông đề nghị từ 1903 lại chính là hydro và oxy lỏng, mà hiện nay, vẫn là chất đốt (hay propecgol) của những vật bắn ra tiến bộ nhất.

Lúc đó, vẫn còn quá sớm để các giới cầm quyền và các công ty tư nhân quyên tâm tới vật bắn ra. Bản thân các nhà quan sự cũng cho là thời đại của các dụng cụ đó đã hoàn thành. Vì vậy, trong cả một phần ba thế kỉ XX, việc nghiên cứu những dụng cụ ấy vẫn là công việc luôn luôn nhiệt tình, và thường không chút vụ lợi của một vài nhà tiên phong đơn chiếc. Trong ba mươi năm, Tsiolkovski đã cung cấp một công trình kiến trúc lý thuyết đồ sộ. Ở Pháp, từ 1912, Robert Ernault Pelterie trong một bài báo nhan đề Nhận định về kết quả của một công thức giảm cân động cơ, đã bàn về việc dùng các vật bắn ra để phóng các công cụ vũ trụ.

Phát minh ra vật bắn raNhà phát minh Robert H. Goddard với vật bắn ra áp dụng chất đốt lỏng đầu tiên trên thế giới.

Cũng trong thời kì ấy, một giáo sư ngành vật lí Mĩ trẻ Robert H. Goddard bắt đầu sự nghiệp phi thường của nhà nghiên cứu đơn chiếc. Những cuộc thử nghiệm đầu tiên về vật bắn ra dùng thuốc súng của ông được làm năm 1915. Rồi ông đi khiến cho quân đội Mỹ, nhưng đến khi đình chiến, quân đội chẳng còn quyên tâm đến công trình kiến trúc của ông. Thế là Goddard phải kêu gọi vào tiến hành những nghiên cứu cá nhân.

Năm 1919, ông cho phát hành một quyển sách kinh điển về kĩ thuật vật bắn ra: Phương pháp để đạt những độ cao to lớn. Năm 1923, ông theo quan điểm của Tsiolkovski và hướng các nghiên cứu của mình vào vật bắn ra dùng chất đốt lỏng. Ba năm sau, ông đã thực hiện thành công chuyến bay đầu tiên, nhưng ngắn ngủi của một vật bắn ra nhỏ, phóng lên bằng một kết hợp dầu thắp đèn (dầu lửa) và oxy lỏng, lên cao được 30m. Trước sự thờ ơ của các cơ quan chính quyền, các nhà quan sự và những nhà nền công nghiệp chính chắn nhất, Goddard vẫn truy bắt sự nghiệp dũng cảm của mình, và ngay trước Thế chiến Thứ hai, vật bắn ra của ông – bao gồm đủ các bộ phận của máy phóng công cụ vũ trụ tương lai – đã lên cao được 2200m và đạt tốc độ 1000 km/h.

Phát minh ra vật bắn ra

Nước Đức cũng có nhà vật bắn ra học đơn chiếc riêng của họ, Hermann Oberth, người đã công bố mười haic phẩm nhan đề “Tên lửa phóng tới không gian giữa các hành tinh”, từ năm 1923. Ông cũng cần sự giúp đỡ, và năm 1928, đã đảm nhận tham mưu kĩ thuật cho bộ phim Một nữ giới trên Mặt trăng, của Fritz Lang, hợp đồng buộc sản xuất thủ công phim phải cung cấp số vốn thiết thực để trở tạo một vật bắn ra thật sự, dùng chất đẩy lỏng, vật bắn ra này phải được phóng khi phim xuất xưởng. Cuộc phóng này không thực hiện được, vì Oberth là một nhà lý thuyết hơn là một nhà thực hành và không đạt được được nhiệm vụ đúng thời hạn mong muốn, nhưng sự kiện đã có tác dụng tốt và gây được trong giới trẻ của Đức một trào lưu dư luận rộng lớn vì sự nghiệp du hành vũ trụ. Quanh Oberth, chẳng bao lâu đã có một nhóm nhà kĩ thuật trẻ tập hợp, trong số đó có Wernher von Braun nhanh chóng nổi hơn.

Một nhiệt tình tương tự ở Nga cũng khuấy động nhiều bọn trẻ ganh đua với Tsiolkovski. Vào cuối những năm 1920, những người thúc đẩy phong trào là Fridrikh A. Tsander, hãng sản xuất những vật bắn ra chất lỏng đầu tiên năm 1930 và Valentin P. Glushko đã chế tạo nhiều vật bắn ra lớn từ 1930 trở đi. Một số vật bắn ra ấy sau này được dùng để đẩy một máy bay – vật bắn ra được thiết kể bởi Serge Korolev, một kĩ sư hứa hẹn một vận mệnh rực rỡ, nhưng không còn được nghe nói đến trước khi qua đời. Thật vậy, chiến tranh đang tới gần, và các nghiên cứu đều hướng về việc hoàn chỉnh các công cụ quân sự được bao phủ trong màn bí mật.

Người ta được nghe rõ hơn về điều xảy ra ở Đức. Những nhà nghiên cứu nghiệp dư của VfR (Verein fue Raumchiffart, Hội du hành vũ trụ), sau khi dùng vật bắn ra để đẩy ôtô – do đó quảng bá được cho cả sự nghiệp của họ, lẫn cho hãng Opel – đến năm 1930, đã bắt đầu thử nghiệm những vật bắn ra nhỏ dùng chất đốt lỏng. Tuy nhiên, nhiệt tình của hội đã bị cuộc sút kém kinh tế dập tắt, và năm 1932, những người chỉ huy đã phải yêu cầu sự giúp đỡ của quân đội. Chính là sau một cuộc trình diễn, được tổ chức bấy giờ cho các chuyên gia quân sự, mà các vị này nắm túm được lợi ích của vật bắn ra dùng chất đốt lỏng để làm phương tiện vận tải vũ khí tấn công. Theo lời chứng của chính Von Braun thì lúc ấy, ông đã được tướng W. Domberger mời họp mặt trọng tâm nghiên cứu mà tướng đó chỉ huy “để cung cấp cho ông những phương tiện thực nghiệm nhằm làm luận văn Tiến sĩ khoa học về tân lửa của ông”.

Năm 1936, đèn xanh đã được bật cho tướng Domberger và vị tướng này đã xây dựng trên bờ biển Baltique trọng tâm nổi tiếng Peenemunde, về nghiên cứu khí tài quân sự, mà Von Braun đảm nhận ngay quyền chỉ huy kĩ thuật. Khi số phận trở nên bất lợi cho các lực lượng vũ trang Đức, Hitler mới hiểu được, một cách muộn màng, tầm quan trọng của vật bắn ra tầm xa. Những phương tiện rất lớn đã được trao cho Domberger, và đã có lúc có tới 20.000 người đi làm tại Peenemunde, hoặc để phục vụ cơ sở ấy. Kết quả là ngày 3 tháng 10 năm 1942, vật bắn ra thí nghiệm đầu tiên A-a được phóng lên. Ngày 8 tháng 9 năm 1944, dụng cụ nặng 15 tấn, mang một tấn thuộc nổ này, được nhét vào hoạt động với tên gọi V2 đã được phóng sang London và Paris.

Phát minh ra vật bắn ra

Cuối chiến tranh, Von Braun cùng nhiều thành viên trong nhóm của ông đã rút khỏi Peenemunde trước khi quân Nga đến, và sang Hoa Kì cùng với một kho vật bắn ra V2. Chính là với những nhân loại và công cụ ấy mà Hoa Kì bắt đầu các nỗ lực của họ trong lĩnh vực các chiến cụ vượt đại châu, và nghiên cứu vũ trụ. Ông tổ của những vật bắn ra lớn, nhiều tầng, hiện được phóng từ căn cứu Kennedy là một vật bắn ra V2, trên đó có lắp một vật bắn ra Wac-Corporal nhỏ. Thiết bị này, phóng lên ngày 24 tháng 2 năm 1949 đã có thể đạt độ cao 403 km. Đó là một vật bắn ra Redstone (đá đỏ) mà nhóm của Von Braun chế tạo trước hết. Rồi từ dụng cụ 20.400 kg khởi thuỷ từ V2 này, lại đến vật bắn ra Jupiter, 47.600 kg, tiêu thụ kêrôxen và oxy lỏng. Chính là với Jupiter mà cư dân Mĩ đã phóng thành công vệ tinh đầu tiên của họ, ngày 1 tháng 2 năm 1958.

Ba tháng tiền đề, dư luận cư dân cũng như các nhà giáo đã sửng sốt trước việc phóng vệ tinh Spoutnik, nặng 84 kg của Nga, tiếp theo là một vệ tinh khác, nặng 508 kg, chỉ sau đó một tháng. Như vậy, rõ ràng là ở Liên bang Sô-Viết, người ta cũng tin cậy vào các nhà vật bắn ra học, và các nghiên cứu đã được tiến hành lâu năm ở đó dưới sự bảo vệ của của chính quyền, và trong sự bí mật hoàn hảo nhất. Chẳng hạn, phải đến năm 1966, quốc tang tặng cho Serge Korolev, mà không ai nghe nhắc đến từ những năm 1930, mới vạch ra rằng ông chính là ông thân sinh của các vật bắn ra vũ trụ của Liên bang Sô-Viết.

Phát minh ra vật bắn ra

Ngay sau đó, người ta chế tạo những vật bắn ra ngày càng mạnh, càng đáng tin hơn, để thỏa mãn các nhu cầu nghiên cứu vũ trụ và du hành vũ trụ. Một trong những vật bắn ra độc đáo hơn cả và có được lâu dài hơn cả (mười nghìn lần phóng) hoàn toàn là vật bắn ra R-7 của Korolev; được thử nghiệm có kết quả trong tháng 8 năm 1957, thì ngay tháng 10 nó đã đưa được lên quỹ đạo vệ sắc sảog tự nhiên đầu tiên, Spoutnik-1. Tầng số 1 của nó gồm hai mươi ống phụt, thành thử đường kính đáy của nó lên tới 10m. Từ lúc đó, diễn ra một cuộc sự mâu thuẫn giữa Liên bang Sô-Viết và Hoa Kì. Cuộc chạy đua về sực mạnh đã đem lại thắng lợi cho cư dân Mĩ, vào tháng mười một năm 1967, với sự phóng lần đầu của vật bắn ra Saturn-5 do nhóm của Von Braun xây dựng. Nó cao 110m, khối lượng 2700 tấn lúc cất cánh và có thể đưa lên mặt trăng một con tàu Apollo 45 tấn, nhưng nó chỉ được chế tạo tới biến thiên thứ 18. Energia của Nga đã là vật bắn ra mạnh nhất thế giới, từ ngày nó được nhét vào hoạt động, tháng 5 năm 1987, cho đến khi ngừng khai thác, năm 1995 (vì lí do kinh tế).

Cuối cùng, nước Pháp đã trở thành siêu cường vũ trụ thứ ba, vào năm 1965, với việc đưa quả vệ tinh nhỏ Astéris lên quỹ đạo, bằng vật bắn ra Diamant A. Tên lửa Arian của châu Âu đã bắt đầu sự nghiệp vinh quang của nó năm 1979; cao 48m, Arian có thể đưa từ bệ phóng Kourou ở Guyana, lên quỹ đạo địa tĩnh, những công cụ nặng tới 1750 kg, năm 1996, Arian-5 đã có một khả năng phóng 6700 kg. Sự tăng khối lượng của các vệ tinh này, sở dĩ trở thành khả dĩ, là nhờ sự phát triển của những công cụ phóng dùng sự đẩy với kĩ thuật nghiệm lạnh (tức là dùng oxy và hydro lỏng).