Người khám phá ra hiện tượng phóng xạ tự nhiên

Ngày 12/6/1901, nhà bác học vĩ đại người Pháp Antoine Henri Becquerel đã công bố những điều tra và nghiên cứu tiên phong về hiện tượng kỳ lạ phóng xạ. Becquerel phát hiện được rằng tinh thể muối uranium liên tục phóng ra một loại bức xạ có năng lực xuyên qua những màn chắn ánh nắng và làm đen những kính ảnh. Đó chính là hiện tượng kỳ lạ phóng xạ tự nhiên .

Antoine Henri Becquerel sinh ngày 15/12/1852 tại Paris, trong một mái ấm gia đình gồm những nhà vật lý nổi tiếng. Ông nội của Henri Becquerel là Antoine César Becquerel, một trong những người sáng lập ra môn điện hóa học ; cha ông là Alexandre Edmond Becquerel, người đã phát minh ra quang phổ kế .

Sau khi tốt nghiệp đại học, năm 1895, Henri Becquerel là giáo sư vật lý tại Trường Bách khoa và quốc học Pháp. Henri Becquerel đã nghiên cứu về tia Roentgen. Ông cho rằng, nhiều loại chất khác nhau có thể phát ra tia Roentgen sau khi chúng được ánh nắng rọi vào.

Ông bắt đầu một loạt thí nghiệm. Đầu tiên, ông thử một muối uranium và thấy rằng ánh sáng ban ngày phát triển trong khoáng chất này một lân quang được nhìn thấy rõ trên các ảnh chụp.

Những ngày cuối tháng 2/1896, Becquerel sửa soạn vài gương ảnh và đem ra phơi ngoài trời. Nhưng lại gặp những ngày không nắng, ông đành phải cất những gương ảnh vào ngăn kéo. Ngày 1 / 3/1896 đợi thời tiết thật tốt, nhà bác học đem phơi ra ánh sáng mặt trời những gương ảnh đã chuẩn bị sẵn sàng từ hai hôm trước. Và thật quá bất ngờ, những gương ảnh cất kĩ trong tủ, không có ánh sáng lại ăn ảnh. Người ta thấy rõ một vết ở chỗ có để muối. Như vậy Becquerel đạt đến một mày mò to lớn : Uranium và hợp chất của nó phát ra một bức xạ đặt biệt bắt được trên gương ảnh. Đó chính là hiện tượng kỳ lạ phóng xạ tự nhiên .

Năm 1903, Becquerel đã được tặng giải thưởng Nobel về vật lý cùng với Pierre và Marie Curie vì những công trình nghiên cứu của mình về uranium và các chất phóng xạ.

Nhờ có phát minh của Becquerel, người ta quan tâm nhiều hơn đến các chất phóng xạ. Một loạt các chất phóng xạ được tìm ra với sự hy sinh của nhiều nhà khoa học như Ernest Rutherford, Marie Curie, Pierre Curie. Đến nay, 78 chất phóng xạ khác nhau đã được tìm ra như cacbon phóng xạ, iốt phóng xạ, urani, radi, poloni, plutoni… Các loại vật chất này đã khiến cho cuộc sống loài người có nhiều thay đổi lớn lao.

Ứng dụng chất phóng xạ trong y học và sinh học

Chất phóng xạ đã và đang cứu được hàng nghìn người trên thế giới với ứng dụng trong lĩnh vực y sinh học. Ứng dụng đặc sắc nhất của chất phóng xạ là trong điều trị các bệnh ung thư.

Với tính năng làm hỏng DNA, những chất phóng xạ có năng lực làm tế bào ung thư chết từ từ, khối ung thư thì nhỏ lại không hề phục sinh. Hàng loạt những bệnh nhân ung thư đã được sử dụng chất phóng xạ trong điều trị ung thư máu ( leukemia ), ung thư tinh hoàn, ung thư buồng trứng, ung thư gan, ung thư tuyến giáp, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt …

Ngoài ra, người ta còn sử dụng phóng xạ trong nghành chẩn đoán. Một trong những bệnh được ứng dụng khá tốt là nhồi máu cơ tim và bệnh Basedow. Ở đây, người ta sử dụng chất phóng xạ là i ốt .

Sự ứng dụng mang tính đột phá có lẽ là trong công nghệ chẩn đoán hình ảnh. Sử dụng các tia giống tia phóng xạ như tia X, tia gamma, người ta thu được những hình ảnh sắc nét, rõ ràng, giúp phát hiện và hỗ trợ chẩn đoán, điều trị bệnh đạt hiệu quả và độ chính xác cao.

Những thảm họa mang tên “ hạt nhân ”

Bên cạnh những ứng dụng có ích của chất phóng xạ, người ta lại luôn tìm cách khuếch đại mức năng lượng này lên. Vì vậy, chúng cũng đã gây ra những thảm họa mà lịch sử không bao giờ quên.

Thảm họa kinh hoàng tiên phong của chất phóng xạ là hai quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật Bản ở hai thành phố là Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945. Năng lượng hạt nhân và phóng xạ do nó tạo ra làm chết ngay 140.000 người ở Hiroshima và 74.000 người ở Nagasaki. Trong khi đó, gánh nặng ung thư do phóng xạ còn sống sót dai dẳng đến thời nay .