Hình ảnh người nông dân trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao

Nam Cao đã từng nói: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có..”

Hình ảnh người nông dân trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao

Nam Cao là một người luôn luôn đề cao sự sáng tạo, cùng viết về chủ đề người nông dân, song Nam Cao luôn đưa một cái nhìn khác nhất so với những nhà văn cùng thời, một hình tượng người nông dân bất hạnh, khốn khổ, và đặc biệt là khắc họa được bi kịch đến từ chính sự lương thiện của họ. Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên là một trong những hình tượng nhân tiêu biểu nhất cho phong cách viết của nhà văn Nam Cao.

Đại diện cho những người nông dân có số phận bất hạnh

Có thể, những người nông dân lúc bấy giờ đã bị dồn vào đường cùng không lối thoát, họ là nạn nhân của một xã hội tán tận lương tâm, đểu giả coi mạng người như cỏ rác. Lão Hạc là một trong vô vàn những người như thế. Cuộc đời lão Hạc là một chuỗi những đau khổ và bất hạnh, một kiếp đời chua chát và đắng cay! Góa vợ từ lúc còn trẻ, một mình lão gà trống nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ, những mong con khôn lớn trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng hạnh phúc nhỏ nhoi ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí đăng tên làm phu đồn điền cao su.

Đại diện cho những người nông dân có số phận bất hạnh

Một sức già và mảnh vườn con con, kiệt sức vì lam lũ đã đẩy con người này vào đường cùng của số phận. Ta có vẻ như nhận thấy bóng hình của lão có điểm tương đương của rất nhiều nhân vật. Ấy là một chị Dậu phải bán cả con vì đồng xu tiền sưu, là Chí Phèo bị tước đoạt đi quyền làm người. Bởi cuộc sống của lão Hạc không phải cuộc sống của một cá thể, nó là hiện thân cho số phận của cả một giai cấp. Giai cấp nông dân bị đọa đày, một cổ hai tròng phải chịu cảnh làm nô lệ ngay trên mảnh đất quê nhà mình .
Sau cái cổng làng rêu phong cổ kính không phải là cảnh quê yên bình, mà là những phận người đang ngày ngày đấu tranh, đang dần không thở được vì sự bóc lột chính sách thực dân – phong kiến vẫn không tìm được cách phản kháng. Sự tù túng nuốt chặt lấy trang văn không thể nào vùng thoát .
Xem thêm : Giá trị hiện thực trong tác phẩm của Nam Cao

Vẻ đẹp người nông dân – hạt châu sáng ngời giữa đêm tối

“ Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác ; cái khát vọng Phục hồi và bảo vệ những cái tốt đẹp. ” ( Ai-ma-tốp )

Nhà văn, nói cho cùng cũng là con ong đi chắt lọc những tinh túy nhất của đất trời mà làm nên thứ mật ngọt làm đắng say lòng người. Mà không có bất cứ thứ gì đáng trân quý hơn là vẻ đẹp trong tâm hồn con người. Tựa như người đãi cát tìm vàng, Nam Cao vẫn cố gắng tìm cho ra vẻ đẹp của những người nông dân thời kì này. Lão Hạc, có thể nói, mang trong mình một tâm hồn thiện lương hiếm có, cũng là vẻ đẹp của cả một giai cấp.

Giữa cuộc đời khốn khổ, lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người cha không cho phép lão tiêu vào mảnh vườn do người mẹ để lại cho đứa con. Lòng tự trọng của một con người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết cũng chẳng sướng gì hơn lão, càng không cho phép lão làm phiền lụy đến bà con lối xóm. Lão biết họ đã khốn khổ lắm rồi, lão không thể là gánh nặng cho họ. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, Lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma cho mình. Thật là một tấm lòng cao thượng và vị tha hiếm có! Ta nhận thấy ở lão Hạc một triết lí sống giản dị nhưng đẹp biết nhường nào.

Vẻ đẹp người nông dân – hạt châu sáng ngời giữa đêm tối

Sự lương thiện của lão Hạc được thể hiện rõ nhất khi ông buộc phải bán con chó, sự dằn vặt khi phải bán nó đi tựa như lưỡi dao sắc bén nhất đâm nát trái tim vốn đã rất yếu ớt của lão. Lão Hạc lương thiện đến mức ông cảm thấy có lỗi với một con vật tưởng không có cảm xúc. Lão thà chết chứ không bán linh hồn mình cho quỷ dữ. Cuối cùng lão đã chọn cái chết để giữ trọn sự trong sạch và lương thiện trong tâm hồn mình. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng

Giữa thế sự ngổn ngang, biết bao con người đã bị tha hóa, lầm lạc, lão Hạc vẫn biết giữ cho mình một lối sống trong sạch, thiện lương sáng ngời.

Xem thêm : Tắt đèn – ngòi bút lách sâu vào hiện thực mục nát

Bi kịch chung của những người nông dân – bi kịch bắt nguồn từ chính sự lương thiện

Ta đã từng đau lòng khi chứng kiến Chí Phèo chết ngay trước ngưỡng cửa của lương thiện, từng quặn đau khi nhìn cách chị Dậu lao ra trong bóng tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Điểm chung của những tác phẩm viết về người nông dân trước cách mạng tháng 8 là đều kết thúc trong bi kịch. Các tác giả không tìm được lối thoát cho những nhân vật của mình. Tác phẩm mang lối viết rất ngột ngạt tù túng. Bởi ảnh hưởng của thời đại, bi kịch của lão Hạc có sự tương đồng với bi kịch của những người nông dân khác. Ấy là bi kịch của số phận bất hạnh, xã hội thời bấy giờ không chứa được những con người nhỏ bé, không quyền không thế, không cả tiền; bi kịch của sự thiện lương khi xã hội ấy cũng không chấp nhận những con người lương thiện quá, nó yêu cầu con người ta gạt bỏ lòng tự trọng, tự tôn để mà sống. Những người nông dân đi ngược với xu thế ấy đều bị đào thải. Đau lòng thay!

Cái chết của lão Hạc vô cùng ám ảnh, nó là hình ảnh chân thực nhất cho giai cấp nông dân thời bấy giờ, bị dồn vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời cũng là lời chia buồn thâm thúy cho những con người thiện lương buộc lòng phải chấm hết đời sống của chính mình vì không hề gian ác. Tác phẩm đã đặt người nông dân vào tận cùng của sự đau khổ, những phẩm của Nam Cao không khi nào nửa vời, đã đau thì phải đau đến tận cùng, đã tha hóa thì phải hơn cả quỷ dữ .
Như vậy, tác phẩm “ lão Hạc ” đã thành công xuất sắc khắc họa hình tượng người nông dân trước cách mạng tháng tám, không thiếu khổ đau xấu số, nhưng cũng sáng ngời vẻ đẹp cất lên từ tâm hồn thiện lương, không bị vẩn đục .
Thảo Nguyên