Apollo 11 – Wikipedia tiếng Việt

Apollo 11 là chuyến bay không gian đã hạ cánh cùng con người đầu tiên đáp xuống Mặt Trăng, hai nhà phi hành gia Hoa Kỳ là Neil Armstrong và Buzz Aldrin, vào ngày 20 tháng 7, năm 1969, vào lúc 20:18 UTC. Armstrong trở thành người đầu tiên bước chân lên bề mặt của Mặt Trăng sáu giờ sau vào ngày 21 tháng 7 vào lúc 02:56 UTC. Armstrong dành hai tiếng rưỡi bên ngoài con tàu không gian, trong khi Aldrin có ít thời gian hơn một chút và cùng nhau, họ thu thập 47.5 pounds (21.5 kg) Đá Mặt Trăng cho chuyến trở về Trái Đất. Thành viên thứ ba của Phi hành đoàn, Michael Collins[2], lái Mô-đun Điều Khiển một mình quanh quỹ đạo của Mặt Trăng cho đến khi Armstrong và Aldrin quay về Mô-đun Điều Khiển chỉ một ngày trước khi họ phải bắt đầu hành trình quay về Trái Đất.

Được phóng lên bởi tên lửa đẩy Saturn V từ Trung tâm Vũ trụ Kennedy từ Đảo Merritt, Florida vào ngày 16 tháng 7, Apollo 11 là chuyến bay có người lái thứ năm thuộc Chương trình Apollo của NASA .

Tàu không gian Apollo có ba bộ phận: một Mô-đun Điều khiển (Command Module – CM) với cabin cho ba Phi hành gia cùng với phần duy nhất hạ cánh xuống Trái Đất; một Mô-đun Phục vụ (Service Module – SM), có chức năng hỗ trợ Mô-đun Điều khiển với lực đẩy, năng lượng điện, Oxy và nước; và Mô-đun Mặt Trăng (Lunar Module – LM) cho việc hạ cánh trên Mặt Trăng.

Sau khi được gửi đến Mặt Trăng bởi tầng trên của tên lửa đẩy Saturn V, các Phi hành gia tách con tàu khỏi nó và du hành ba ngày cho đến khi tiến vào quỹ đạo của Mặt Trăng. Armstrong và Aldrin sau đó di chuyển vào Mô-đun Mặt Trăng và hạ cánh tại Biển Tĩnh Lặng (Sea of Tranquility). Họ ở đó trong vòng 21 tiếng rưỡi sau khi hạ cánh trên bề mặt của Mặt Trăng. Sau khi bay lên bằng phần trên của Mô-đun Mặt Trăng và quay trở về Mô-đun Điều khiển với Collins, họ quay về Trái Đất và hạ cánh ở Biển Thái Bình Dương vào ngày 24 tháng 7.

Phát sóng trực tiếp trên sóng truyền hình đến khán giả toàn cầu, Armstrong bước đi trên bề mặt Mặt Trăng và miêu tả sự kiện ấy qua câu nói nổi tiếng: “Đây là bước đi nhỏ bé của một con người, nhưng là bước tiến khổng lồ của cả nhân loại.” Apollo 11 kết thúc một cách hiệu quả Cuộc đua Không gian giữa 2 siêu cường Mỹ và Liên Xô với chiến thắng thuộc về người Mỹ, qua đó hoàn thành một mục tiêu quốc gia được đề ra năm 1961 bởi Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy trong một cuộc họp báo trước Quốc hội Hoa Kỳ: “Trước khi thập kỷ này kết thúc, chúng ta sẽ đưa được một người lên Mặt Trăng và đưa anh ta quay trở về Trái Đất an toàn.”

Phi hành đoàn[sửa|sửa mã nguồn]

Mỗi thành viên của Apollo 11 đã từng tham gia một chuyến bay ngoài hành tinh trước trách nhiệm này, dẫn đến việc đây là Phi hành đoàn thứ hai được cấu trúc từ những Phi hành gia kỳ cựu ( Chuyến tiên phong là Apollo 10 ) trong lịch sử dân tộc chuyến bay khoảng trống của loài người .Collins thực ra được chọn là phi công của Mô-đun Điều Khiển ( CMP ) của Apollo 8 nhưng bị vô hiệu do ông cần một ca phẫu thuật sống lưng và được sửa chữa thay thế bởi Jim Lovell, là Phi hành gia dự bị cho chuyến bay đó. Sau khi Collins được kiểm tra y tế và hoàn toàn có thể quay trở lại, ông được phân công vào vị trí của Lovell trên tàu Apollo 11 ; với tư cách là cựu phi hành gia của Apollo 8, Lovell được chuyển về vị trí phi hành đoàn dự bị của Apollo 11, nhưng được thăng cấp trở thành Chỉ huy Dự bị .

Phi hành đoàn Dự bị[sửa|sửa mã nguồn]

Vào những năm đầu 1969, Anders đồng ý một việc làm tại Hội đồng Vũ trụ Quốc gia, đến tháng 8 năm 1969 và thông tin rằng ông sẽ về hưu và trở thành Phi hành gia vào ngày hôm đó. Tại thời gian đó, Ken Mattingly được chuyển từ Phi hành đoàn Hỗ trợ đến Huấn luyện song song cùng Anders cho vị trí Chỉ huy Phi hành đoàn Dự bị trong trường hợp Apollo 11 bị hoãn quá kế hoạch phóng vào Tháng 7 ( tại thời gian này Anders sẽ không được tham gia nếu ông được cần tới ) và sau đó sẽ tham gia Phi hành đoàn của Lovell và ở đầu cuối được chỉ định là Phi công của Mô-đun Điều khiển trong phi vụ Apollo 13 .

Đội tương hỗ[sửa|sửa mã nguồn]

Điều hành chuyến bay[sửa|sửa mã nguồn]

  • Cliff Charlesworth (Đội Xanh), phụ trách trong khoảng thời gian phóng và đi bộ trên Mặt Trăng
  • Gene Kranz (Đội Trắng), phụ trách trong khoảng thời gian hạ cánh
  • Glynn Lunney (Đội Đen), phụ trách trong khoảng thời gian bay lên từ bề mặt.

Tên mật mã[sửa|sửa mã nguồn]

Sau phi hành đoàn của Apollo 10 đặt tên cho phi thuyền của họ Charlie Brown Snoopy, Phó Giám đốc Quần Chúng Julian Scheer viết thư cho Giám đốc của Trung tâm Phi Thuyền Có Người Lái (Manned Spacecraft Center – MSC) đề nghị việc phi hành đoàn của Apollo 11 giảm bớt việc thiếu nghiêm túc khi đặt tên cho phi thuyền của họ. Cái tên Đá Bào (Snowcone) Đống Rơm (Haystack) đã được sử dụng và tuyên truyền cho báo chí, nhưng Phi hành đoàn quyết định đổi chúng.

Mô-đun điều khiển được đặt tên là Columbia phỏng theo tên Columbiad, một vỏ tàu không gian khổng lồ được bắn lên trời bởi một khẩu pháo (cũng ở Florida) trong cuốn tiểu thuyết năm 1865 Từ Trái Đất đến Mặt Trăng của Jules Verne. Mô-đun Mặt Trăng được đặt tên là Đại bàng (Eagle) từ loài quốc điểu của Hoa Kỳ, đại bàng đầu trọc, con vật được vẽ một cách rất nổi bật trên ký hiệu của nhiệm vụ.

Ký hiệu của nhiệm vụ Apollo 11 được thiết kế bởi Collins, người muốn nó trở thành biểu tượng cho sự kiện “Hạ cánh trên Mặt Trăng một cách hòa bình” của người Mỹ. Ông chọn một con Đại Bàng cho biểu tượng, đặt một nhành Olive trong mỏ của nó và vẽ khung nền là Mặt Trăng cùng Trái Đất ở một khoảng cách phía sau. Người phát ngôn của NASA nói móng của Đại Bàng nhìn quá “chiến tranh” và sau một vài cuộc thảo luận, nhành Olive được chuyển xuống móng Đại bàng. Phi hành đoàn quyết định số La Mã XI tại một số quốc gia sẽ không hiểu cho nên đã đi với chữ “Apollo 11”; họ quyết định sẽ không đặt tên của họ lên phù hiệu, để cho ký hiệu tượng trưng cho Tất cả những ai đã làm việc để có được sự kiện đó.” Mọi màu sắc đều tự nhiên, với màu xanh và viền màu vàng bên ngoài phù hiệu.

Khi đồng xu Dollar Eisenhower được xuất bản năm 1971, phong cách thiết kế của phù hiệu cho con Đại bàng được in trên mặt sau. Thiết kế cũng được sử dụng cho đồng xu nhỏ hơn, đồng Dollar Susan B. Anthony được xuất bản năm 1979, đúng một thập kỷ sau trách nhiệm Apollo 11 .

Vật lưu niệm[sửa|sửa mã nguồn]

Các vật phẩm lưu niệm được Neil Armstrong mang theo gồm có một miếng gỗ từ cánh quạt trái từ chiếc máy bay tiên phong của Anh Em Wright năm 1903 và một mảnh vải từ cánh của nó, cùng với một huy hiệu hình kim cương được Tặng Kèm cho Deke Slayton từ những góa phụ của Phi hành đoàn Apollo 1. Chiếc huy hiệu này đáng lẽ sẽ được mang theo trên Apollo 1 và được khuyến mãi cho Slayton sau trách nhiệm nhưng sau vụ thảm họa nổ bãi phóng và lễ tang sau đó, những góa phụ Tặng chiếc huy hiệu cho Slayton và Armstrong mang theo nó trên Apollo 11 .

Thuyết thủ đoạn[sửa|sửa mã nguồn]

Với chuyến bay vào khoảng trống Apollo 11, cuộc đổ xô lên mặt trăng được coi như là một bước tiến vĩ đại của con người trong việc chinh phục ngoài hành tinh. Nhưng cạnh bên đó có không ít thuyết thủ đoạn gây tranh cãi việc con người tới được Mặt Trăng là một điều không bình thường với nhiều câu hỏi như : lá cờ lại bay được, ai là người chụp lại hình ảnh của những phi hành gia, khung trời Mặt Trăng không có ngôi sao 5 cánh nào, tàu thám hiểm đổ xô xuống mà không gây ra dấu tích gì, mọi thứ vẫn không bị tan chảy ở nhiệt độ 138 °C. [ 3 ] [ 4 ] Tất cả điều này đều đã được lý giải rõ ràng. Lá cờ được cố định và thắt chặt bằng những khung ngang để trải rộng lá cờ, tuy nhiên do những khung không được thẳng nên lá cờ không hề trải rộng mà bị nhăn nheo nhìn giống như đang bay trước gió, không hề có những máy ảnh hay camera nào được những phi hành gia cầm trên tay vì camera được gắn trên áo của những phi hành gia, ánh sáng của những ngôi sao 5 cánh đã bị che mờ bởi mặt phẳng mặt trăng phản xạ ánh sáng mặt trời, tàu thám hiểm đã giảm ga và bay trên không để dò sát mặt phẳng một khoảng chừng thời hạn trước khi hạ cánh, vì thế đã không có những chấn động mạnh in hằn lên mặt phẳng của Mặt Trăng. Nhiệt độ mặt phẳng của mặt trăng lên tới 138 độ C nhưng những phi hành gia cùng những thiết bị và phim ghi hình đều được phủ bọc trong những lớp hoặc hộp bảo vệ công nghệ cao. Thêm vào đó, phi hành đoàn đổ xô lúc bình minh của mặt trăng nên nhiệt độ xuống thấp đáng kể. Cuối cùng, bức ảnh ghi lại hình ảnh lúc rời đi của những phi hành gia được chụp bởi một camera được bỏ lại trên Mặt trăng và được tinh chỉnh và điều khiển từ Trái Đất. [ 3 ]

Nguồn gốc của các thuyết âm mưu về việc người Mỹ chưa hề đặt chân lên Mặt trăng bắt đầu bằng cuốn sách ‘Chúng ta chưa bao giờ lên Mặt Trăng – We Never Went to the Moon’ của Bill Kaysing (1922-2005).[cần dẫn nguồn] Dù Bill Kaysing nhiều lần khẳng định mình chẳng biết gì về công nghệ tên lửa, nhưng khi ông ta khẳng định video đặt chân lên Mặt Trăng được quay tại một khu vực bí mật đặt trong Area 51, người ta tin ngay. Ông đã tìm kiếm bằng chứng cho cáo buộc của mình, với các bức ảnh mù mờ và những giả thuyết được cho là khôi hài. Tuy nhiên, bằng cách nào đó, các giả thuyết của ông vẫn còn tồn tại đến ngày nay trong các bộ phim Hollywood, phim tài liệu Fox News, diễn đàn Reddit và các kênh YouTube.[5]

Ở Liên Xô vào năm 1969, không ai trong số quan chức cũng như giới truyền thông nước này nghi ngờ về thành tích của các phi hành gia Mỹ. Phi hành gia người Nga Georgy Grechko, một thành viên trong chương trình Mặt trăng của Liên Xô cho biết:“Khi chúng tôi nhận được tín hiệu từ Mặt trăng, chúng tôi đã nhận được chúng từ Mặt trăng thật sự chứ không phải từ Hollywood”[6] Vào thời điểm đó, tất cả các hệ thống trinh sát của Liên Xô đang theo dõi chuyến bay có người lái đầu tiên lên Mặt trăng. Thiết bị vô tuyến của Liên Xô đã nhận được tín hiệu từ Apollo 11 cũng như tất cả các thông tin liên lạc âm thanh và đoạn phim truyền hình về cuộc đổ bộ Mặt Trăng.[6]

Nhà phong cách thiết kế tàu ngoài hành tinh và là phi hành gia Konstantin Feoktistov đã Tóm lại : ‘ ” Dàn dựng một trò lừa bịp như vậy có lẽ rằng cũng khó như việc triển khai thiên chức thực sự ” ” Trước tiên, cần phải gửi trạm vô tuyến lên Mặt Trăng, sau đó đưa tàu Apollo 11 đến. Rồi tạo ra hàng chục nhà máy sản xuất sản xuất tàu vũ trụ giả. Rồi tiến trình quay trở lại Trái Đất … Tất cả đều quá phức tạp. Thậm chí còn khó khăn vất vả hơn cả một cuộc đua trong khoảng trống giữa hai siêu cường “. [ 6 ]Tuy nhiên, vào cuối những năm 1990, ” Thuyết thủ đoạn Mặt trăng ” nổi tiếng quốc tế đã đến Nga, nơi được rất nhiều người hưởng ứng. Giải thích cho điều này, nhiều quan điểm cho rằng, một nước Nga non trẻ đang rất cần những ý niệm ” giả ái quốc ” để thôi thúc niềm tin dân tộc bản địa, trong đó miêu tả rằng người Mỹ đã lừa dối toàn bộ mọi người, kể cả Liên Xô, được cho là vương quốc đi đầu trong mọi nghành nghề dịch vụ. Theo tác giả người Nga Mukhin, những quan chức Liên Xô và một số ít nhà khoa học nước này còn là một phần của thủ đoạn vì họ có những quyền lợi nhất định. [ 6 ]

Liên bang Xô-viết đã huỷ bỏ chương trình Mặt Trăng của mình vào giữa những năm 1970 sau các sự cố khiến 4 tên lửa thí nghiệm trong chương trình này phát nổ. Vào năm 2015, một cựu phát ngôn viên của Uỷ ban Điều tra Nga đã kêu gọi một cuộc điều tra đối với các sứ mệnh hạ cánh xuống Mặt Trăng của NASA.[cần dẫn nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]