YẾU TỐ VĂN HÓA TINH THẦN TRONG CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

YẾU TỐ VĂN HÓA TINH THẦN TRONG CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN KHMER  ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bùi Thị Hồng Loan

Tóm tắt

 

Người Khmer là một thành phần dân cư sinh sống ở đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer thường cư trú tập trung chuyên sâu. Tuy nhiên, ở 1 số ít vùng họ sống xen kẻ với người Việt và người Hoa. Với nền nông nghiệp lúa nước, người Khmer là một dân tộc có nền văn hoá tăng trưởng phong phú, đa dạng và phong phú. Mọi hoạt động và sinh hoạt của người Khmer đều gắn liền với Phật giáo Nam tông. Ngôi chùa được coi là TT. Người Khmer có mối quan hệ khăng khít với người Việt tại vùng đất phương Nam. Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long hầu hết là nông dân và sống ở nông thôn. Nghề nông truyền thống đã đúc rút nhiều kinh nghiệm tay nghề, phong tục tập quán gắn liền với những tàn dư tín ngưỡng. Các nghi lễ nông nghiệp mang sắc thái riêng của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long .

Từ khóa: Khmer, văn hóa, văn hóa tinh thần, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa dân gian

1. Về Tín ngưỡng, tôn giáo

Đối với đồng bào Khmer, họ luôn ý niệm rằng “ vạn vật hữu linh ”. Chính do đó, thần mưa, thần sông, thần rừng, … luôn ngự trị trong tâm thức của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long .
Tín ngưỡng thờ Arak và Neak-ta rất thông dụng. Trước đây, mỗi dòng họ của người Khmer có một Arak hoặc nhiều Arak. Arak được thờ bởi nhiều dòng họ ( Arak chua bua : của dòng họ ). Các Arak thường thừa kế theo dòng nữ. Những mái ấm gia đình cùng một bà tổ tính theo phía mẹ đều thờ chung Arak. Khi cúng Arak, điều kiện kèm theo cần là phải có một người nữ làm rub arak ( rub có nghĩa là xác ) để cho Arak “ nhập ” linh hồn ( thần nhập xác ). Theo đồng bào Khmer, người đóng vai trò “ xác ” thường là người không thông thường ( thường thì là những người có yếu tố về thần kinh ). Người này làm “ cầu nối ” giữa quốc tế thần linh với những người bằng xương bằng thịt ( Nguyễn Xuân Nghĩa. 1979, 43 ). Arak không chỉ là thần bảo lãnh dòng họ mà theo ý niệm của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long, Arak còn là thần bảo lãnh nhà cửa ( Arak pteh ), thần bảo lãnh mái ấm gia đình ( Arak phta ), thần bảo lãnh đất đai nơi cư trú ( Arak phum ) …
Arak đi khắp nơi trong phum không cố định và thắt chặt chỗ ở như Neak Tà. Arak rất thích sắc tố và sẽ quở phạt những người trong phum không tôn trọng mình bằng những lời nói hoặc hành vi vô lễ. Hình phạt so với những người này là làm cho họ không khỏe mạnh. Trong nhà có người bệnh, người thân trong gia đình thường đi xem bói. Nếu thầy bói cho rằng người bệnh bị Arak quở, mái ấm gia đình thường nhờ thầy bói xem ngài “ ngự ” ở đâu và mang lễ vật đến nơi đó cúng vái cầu xin hết bệnh .
Neak Tà là vị thần bảo lãnh của một khu vực đất đai của đồng bào Khmer. Tuy nhiên, nguồn gốc của hình thái tín ngưỡng này về nét dị biệt của nó theo địa phương vẫn chưa được thống nhất. Thực chất, thuật ngữ “ tà ” dùng để chỉ một người đàn ông lớn tuổi. Ông Tà của đồng bào Khmer được ẩn dưới nhiều hình thức : Neak Tà trông coi phum sóc, Neak Tà canh giữ chùa, Neak Tà canh giữ đất đai. Ngoài ra còn có những ông Tà “ quan sát ” ngã 3 ngã 4 sông. Thông thường, ông Tà hay “ ẩn thân ” dưới dạng những hòn đá .
Người Việt gốc Miên rất tôn sùng ông Tà. Họ tin rằng những thiên tai như nắng hạn, ngập lụt, bệnh dịch ở quái vật, tai ương đến cho người do sự bất kính của người so với ông Tà. Vì thế họ tin rằng mỗi khi có chuyện không may xảy đến thì họ phải cúng ông Tà để cầu xin ông bớt giận hoặc che chở cho họ ( Lê Hương, 1969, 70 ). Đối với ông Tà, người Khmer không dám nói những lời thất kính sợ bị “ quở phạt ” .
Do ý niệm vạn vật hữu linh, người Khmer cũng giống như người Việt đều cho rằng có nhiều ma, quỷ sống lẫn lộn với con người. Người Khmer cho rằng ma quỷ có 2 loại : một là những người chết trẻ, chết bất đắc kỳ tử … ; một loại do con người tạo ra để làm những việc đen tối, hại người. Hiện tượng xem bói, lên đồng trong đồng bào Khmer cũng khá phổ với nhiều hình thức công khai minh bạch và lén lúc. Tuy nhiên, chính quyền sở tại địa phương cũng biết được những yếu tố này nhưng vẫn cho qua .
Phật giáo đóng vai trò quan trọng và có vị trí cao nhất trong mọi nghành của đời sống người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Đa số, họ là Phật tử của Phật giáo Nam tông. Nói cách khác, người Khmer vừa là thành viên của phum sóc ( Kon sóc ) đồng thời họ cũng là “ con Phật ” ngay từ lúc họ mới sinh ra. Hầu hết, sóc của đồng bào Khmer đều có chùa ( mỗi sóc có tối thiểu một ngôi chùa Phật giáo ). Tuổi thọ của nhiều ngôi chùa lên đến hàng trăm năm tuổi. Ngôi chùa của người Khmer được thiết kế xây dựng ở vị trí TT của sóc, vừa thoáng đãng vừa cao ráo với hình dáng sừng sững, nguy nga và trang trọng. Đó là một quần thể kiến trúc và tiêu biểu vượt trội cho thẩm mỹ và nghệ thuật văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử của người Khmer ( Nguyễn Xuân Nghĩa, 1984 )
Ngôi chùa chính là TT hoạt động và sinh hoạt tôn giáo của mỗi sóc Khmer. Đây là nơi tu hành của những vị sư sãi, đồng thời còn là nơi những người dân trong sóc đến để nghe những vị sư giảng về kinh Phật. Ngoài ra, bà con trong bổn sóc đến chùa để xin những lời khuyên của những vị sư sãi khi họ mở màn một việc làm mới cũng như những yếu tố xảy ra trong đời sống thường ngày. Đồng bào Khmer tự nguyện đến chùa để làm công quả góp thêm phần kiến thiết xây dựng và tu tạo ngôi chùa. Chùa Khmer còn là nơi tổ chức triển khai những liên hoan lớn trong năm của người Khmer như : lễ mừng năm mới Chol Chnam Thmei, lễ cúng ông bà tổ tiên ( Đôn ta ) và những nghi lễ Phật giáo. Trong chùa còn có trường học dạy chữ Khmer cho con trẻ người dân Khmer trong sóc. Chùa dạy chữ Pali cho những vị sư sãi để đọc kinh Phật. Nhiều ngôi chùa Khmer còn có thư viện, lưu giữ nhiều sách Kinh Phật và những sách vở về văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử của người Khmer. Những vị khách quý của phum, sóc sẽ được nghênh tiếp, chào mừng ngay ở chùa Khmer. Những cuộc hội họp về việc làm chung của những thành viên trong sóc cũng thường được tổ chức triển khai tại ngôi chùa. Có thể nói, chùa Khmer vừa là TT tôn giáo, TT văn hóa truyền thống, giáo dục và xã hội của mỗi sóc, phum. Người Khmer đã bỏ nhiều công sức của con người, vật chất để kiến thiết xây dựng ngôi chùa của sóc khang trang và họ tự hào về ngôi chùa của mình .
Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản rực rỡ nhất của văn hoá Khmer. Trong những ngôi chùa Khmer của Phật giáo Nam tông ( Thérévada ), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được thờ duy nhất và chiếm vị trí TT khu chính điện, vẫn sống sót một mạng lưới hệ thống đa dạng chủng loại linh thần, linh thú – những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian ( http ) .

2. Về phong tục tập quán

Sinh nở được xem là sự kiện quan trọng trong mái ấm gia đình. Mỗi lần sinh là khởi đầu cho vòng đời mới của một kiếp người. Chính cho nên vì thế, người Khmer còn gọi sinh đẻ là “ đi biển ” ( chh’lon tonlê ). Quan niệm xưa của người Khmer khi mang thai, người phụ nữ không được phép đi ra khỏi nhà với nhiều nguyên do khác nhau. Có quan điểm cho rằng : nếu thai mạnh, khi phụ nữ ra đường gặp phải thỏ đang chạy trên đường thì con thỏ ấy không hề chạy nổi. Ngoài ra, những người lớn tuổi còn cho rằng trong lúc thai nghén phụ nữ sẽ lừ đừ hơn đi ra đường dễ bị rắn cắn, sợ trâu bò húc, dễ bị tai nạn thương tâm … Phụ nữ mang thai không được bước cao bước thấp, không được bước qua rãnh nước ( sợ trơn trợt té ngã, sợ sốc thai ), không được chạy nhảy, không được với tay lấy những đồ vật cao quá đầu ( sợ đứt nhau thai ) ( Theo lời kể của ông Chau Nưng, 2009, phum Ô Thum, ấp Phước Lợi, xã Ô Lâm, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang ) .
Khi mang thai, trong ngôi nhà của chính mình người phụ nữ Khmer vẫn không được ngồi hoặc đứng ngay cửa ra vào và nhà hàng xóm cũng vậy. Với 2 nguyên do : thứ nhất về mặt nghệ thuật và thẩm mỹ nhìn thấy không đẹp, thứ hai thuộc về yếu tố tâm linh ( nếu phụ nữ có thai đứng hoặc ngồi ngay cửa, ma quỷ sẽ nhìn thấy và sẽ theo “ ám ” làm cho người phụ nữ ấy bị “ thai hành ” đến khi sinh ). Ngoài ra, người phụ nữ có thai cũng không được đi vào những nhà hàng xóm trong phum sóc một mình. Vì trước đây, nhà cửa trong phum sóc rất thưa ( nhiều phum chỉ có vài nóc nhà ), cây cối nhiều và có tán lá rất to. Người Khmer ý niệm rằng, cây to là nơi ma quỷ, thánh thần hay trú ngụ ở những nơi ấy. Nếu phụ nữ mang thai đi ngang qua, ma quỷ sẽ hiện ra nhát thậm chí còn bị “ giấu ”. Chính cho nên vì thế, về mặt tâm ý người phụ nữ Khmer mang thai thời xưa rất ngại khi đi ra đường .
Trong xã hội lúc bấy giờ, nếu phụ nữ Khmer phát hiện mình có thai họ đều tìm đến những thầy cúng để làm phép trừ tà ma. Thầy cúng làm phép vào những sợi chỉ cho thai phụ đeo vào cổ và quấn ngang bụng cho đến lúc sinh xong mới được cắt bỏ. Quan niệm xưa cho rằng, khi được những thầy cúng làm phép thai nhi sẽ được khỏe mạnh tăng trưởng tốt, thai phụ cũng không bị ốm đau. Trong suốt quy trình mang thai, nếu chỉ bị đứt trước khi sinh con thai phụ phải đến thầy cúng làm phép trừ tà lại .
Trong lúc mang thai, người phụ nữ tuyệt đối đội khăn không được quấn hoặc cột lại ( thói quen quấn khăn ngăn nắp của nông dân lao động ). Nếu người phụ nữ vẫn quen nếp hoạt động và sinh hoạt hàng ngày, đồng bào Khmer cho rằng thai phụ sẽ bị sinh khó ( nhau quấn cổ em bé lúc sinh ). Ngoài ra, người chồng của thai phụ cũng phải tạm bỏ thói quen đội khăn khi ra đồng ( khăn quấn cổ, khăn cột ngang thắt lưng để dắt dao … ). Chính cho nên vì thế, phụ nữ mang thai phải cẩn trọng trong từng động tác của mình trong hoạt động và sinh hoạt mái ấm gia đình. Người chồng cũng không được phép làm một số ít việc làm có đặc thù “ đụt, đẽo … ”. Tất cả những điều cấm kỵ trên nếu không triển khai sợ ảnh hưởng tác động quy trình sinh nở của vợ ( sợ sinh khó và làm tác động ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của vợ và con ) .
Vì vậy, so với phụ nữ mang thai người Khmer rất ưu tiên, không được làm nặng hoặc leo trèo. Người mang thai còn đến chùa cầu khấn Reahu cho sinh nở được mau mắn. Vì theo truyền thuyết thần thoại, Reahu miệng rộng nuốt mặt trăng thuận tiện và nhả ra cũng nhẹ nhàng. Chính vì vậy, phụ nữ Khmer tin rằng khi họ cầu xin Reahu sẽ sinh con được thuận tiện. Ở những chùa Khmer đều trang trí môtip Reahu với đầu to, miệng rộng, nhe răng, trợn mắt, hai tay nắm mặt trời hoặc mặt trăng đưa vào miệng .
Thức ăn cho phụ nữ mang thai tuyệt đối không được ăn cay, đắng, mặn, nóng, thức ăn có nhiều mỡ … và không được phép uống rượu. Đây là những loại thức ăn và đồ uống rất độc tác động ảnh hưởng đến thai nhi và làm cho bé không dễ chịu .
Gần đến ngày sinh, người chồng phải chuẩn bị sẵn sàng không thiếu những đồ vật thiết yếu trong lúc sinh và sau khi sinh như : củi, than nằm lửa, thuốc ngâm rượu … Khi đau bụng sinh, người chồng hoặc người thân trong gia đình trong mái ấm gia đình đi mời mụ về “ đỡ đẻ ”. Họ là những “ mụ vườn ”, những người này chưa từng qua trường học chỉ biết làm theo “ kinh nghiệm tay nghề ”. Chính vì thế, sản phụ luôn luôn bị những rủi ro đáng tiếc đang rình rập trong lúc sinh nở. Người Khmer rất sợ sản phụ bị “ krola ph’lơn ” và trẻ con sơ sinh thì bị “ slac teanh ”. Trong mái ấm gia đình của người Khmer, khi người con gái hoặc đàn bà “ hư ” người ta thường chửi rủa “ mê krola ph’lơn ” ( có nghĩa là sau này sinh con sẽ bị krola ph’lơn mà chết ) .
Sản phụ sau khi sinh con, mái ấm gia đình mời thầy cúng đến đọc thần chú đồng thời lấy chỉ trắng cột quanh chân giường. Ngoài ra, người Khmer còn lấy xương rồng hoặc lá dứa gai treo trước cửa nhà ( cửa chính ) để xua tà ma. Khi nhìn vào những vật ấy, hàng xóm biết trong nhà có phụ nữ sinh con. Lá dứa được treo đúng 3 ngày thì chủ nhà sẽ lấy xuống. Trong 3 ngày đó, chủ nhà sợ ma quỷ vào sẽ bắt con cháu mình đi nên tìm cách khống chế không cho thế lực này vào. Người Khmer ý niệm ma quỷ rất sợ dứa gai. Hàng xóm láng giềng hay họ hàng quen thuộc nếu nhìn thấy lá dứa gai treo trước nhà, dù có việc cần họ cũng không vào sợ tác động ảnh hưởng đến đứa bé mới sinh .
Khi lá dứa được gỡ xuống, người ngoài hay họ hàng được vào thăm. Nhưng họ hạn chế khen đứa trẻ ( Ví như : nó đẹp quá, béo múp, ngủ ngon, … ). Họ cho rằng, khách ra về đứa trẻ ấy sẽ không ngủ, khóc đêm, bệnh tật và hành hạ người mẹ phải thức thâu đêm suốt sáng chăm con. Vì vậy, họ chỉ được phép chê bai đứa trẻ. Vì người Khmer ý niệm rằng : khi ai đó vào thăm sản phụ và đứa bé, nếu nói ra bất kể điều gì thì sẽ ứng nghiệm ngay. Nhưng sẽ ngược lại với điều mà người vào thăm nói ra ( bé mập mạp thì bé sẽ bị bệnh … ). Phụ nữ sinh con không được đến nhà ai trong tiến trình ở cữ. Người Khmer cho rằng người phụ nữ lúc này sức khỏe thể chất yếu sau lần “ vượt cạn ” và khung hình không thật sạch ( dơ ), không mang đến sự suôn sẻ cho người khác .
Đứa trẻ sau khi sinh được 1 tháng, làm lễ cắt tóc “ trả ơn mụ ” và làm lễ đặt tên cho bé. Trong thời hạn nuôi con, nếu đứa trẻ bị bệnh mái ấm gia đình thường cúng Arak “ cầu xin hết bệnh ” .
Khi đứa trẻ được 12 tuổi, nếu là con trai cho vào chùa đi tu để được học chữ và kinh Phật. Quan niệm của người Khmer, con trai đi tu là để báo hiếu cho cha mẹ. Đối với con gái, mái ấm gia đình người Khmer phải nhờ nhà sư làm lễ “ Trận đạm ” ( Tchen t’an ) trước 11 tuổi hay còn gọi là lễ “ phá tân ” cho những cô gái. Sau khi kết thúc lễ, cha mẹ cô gái phải “ xin chuộc ” nếu không cô gái ấy sẽ thuộc về nhà sư mãi mãi và không được lấy người nào khác ( Lê Hương, 1969, 84 ) .

Khi đã trưởng thành, người con gái Khmer phải chấp hành nghiêm túc tập tục “vào bóng mát”. Các cô gái tự giam mình trong buồng tối 6 tháng để tránh mặt trời và mọi người xung quanh. Trước cửa buồng, cha mẹ cô gái “đánh dấu” cấm không cho ai vào. Trong thời gian này, các cô gái chăm chỉ học may vá, thêu thùa… Trước khi kết thúc giai đoạn này, gia đình cô gái nhờ Acha làm lễ tạ. Trong buổi lễ, có nghi thức “tìm chồng tương lai”. Vị Acha đổ 1 thúng gạo xuống chiếu và vùi vào đó một số vật “tượng trưng” cho người chồng tương lai cho cô gái. Đêm đến, cô gái gối đầu trên đống gạo ngủ. Sáng dậy, cô gái lấy tay thọc vào đống gạo tìm bất kỳ vật gì (không có sự lựa chọn). Vật bắt được tượng trưng cho “bản chất” của người chồng cô gái sau này (bói tương lai). Ví như cô gái bắt phải cái vỏ chai về sau chồng của cô gái sẽ là người nát rượu…(Lê Hương, 1969, 86-87)

Đối với đồng bào Khmer, mùa cưới khởi đầu khi đã thu hoạch xong mùa màng và trước Tết Chol Chnam Thmei. Việc cưới xin là yếu tố quan trọng của cả đời người. Người Khmer cho rằng, mùa màng trúng, thất ( được mùa hay mất mùa ) có năm nhưng cưới hỏi “ sai 1 li đi 1 dặm ”. Chính vì vậy, muốn dựng vợ gả chồng cho con cháu phải “ xem kỹ ” phẩm hạnh, đạo đức của chàng rễ, nàng dâu và cả mái ấm gia đình của họ .
Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cháu. Hôn nhân thường trải qua 3 bước : làm mối, dạm hỏi và lễ cưới thường được tổ chức triển khai ở bên nhà gái. Sau khi cưới, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời hạn. Trải qua vài năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng nhưng vẫn cư trú bên ngoại ( http ). Trai gái Khmer khi đến tuổi trưởng thành được tự do yêu đương. Gia đình có con trưởng thành, họ tự khám phá yêu nhau hoặc do mai mối. Nếu được cha mẹ chấp thuận đồng ý thì thực thi làm lễ cưới. Theo ý niệm của người Khmer, đó là ngày gối đôi. Dân gian thường gọi là ngày “ Pi-pea ” hay “ Apea Piea ”. Ngày nay, hội đồng người Khmer ở những tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long vẫn còn giữ được phong tục lễ cưới giàu truyền thống văn hoá dân tộc. Xưa nay, người Khmer luôn cho rằng cưới xin là nét hoạt động và sinh hoạt truyền thống lịch sử thuộc nghành văn hóa truyền thống dân gian gắn liền với phong tục tập quán của hội đồng. Đám cưới của người Khmer với nhiều nghi thức bắt nguồn từ truyền thuyết thần thoại, truyện cổ tích .
Tang ma của người Khmer có phần khác so với hội đồng cùng sinh sống. Họ không để tang người chết. Người Khmer đồng bằng sông Cửu Long ý niệm rằng, cái chết chưa phải là chấm hết đời sống mà vẫn “ sống ” ở một quốc tế khác. Chính do đó, người thân trong gia đình trong mái ấm gia đình chuẩn bị sẵn sàng tiễn đưa người chết với nhiều nghi thức phức tạp và con cháu tiếp tục “ làm phước ”, mang nhiều lễ vật cúng cho chùa và sư sãi. Đồng bào Khmer tin rằng, những lễ vật ấy sẽ theo khói nhang và tiếng kệ lời kinh đến được với cha mẹ cũng như ông bà của họ ở quốc tế bên kia. Tùy theo con cháu “ trên này ” làm phước ít hay nhiều thì đời sống “ bên kia ” của họ sung sướng hay chật vật .
Người Khmer chịu ảnh hưởng tác động khá thâm thúy triết lý nhà Phật “ nhân quả luân hồi ”. Chính vì vậy, họ ý niệm lúc sống phải sống tốt ( tiếp tục làm phước, làm nhiều điều tốt, giúp sức mọi người, … ) sẽ gặp phước và đến lúc chết sẽ được đến “ nơi tốt ”. Tục ngữ Khmer có câu :
“ Ruốt ôi kop – ngop ôi kua ”
Có nghĩa là : Sống xứng danh – chết để tiếng
Hoặc : “ Kòm slắp munh rus – Kom rus munh sláp ”
Có nghĩa là : Đừng sống trước chết – đừng chết trước sống
Hay còn có nghĩa : Trước khi chết đừng để tiếng xấu cho con cháu
Đối với người Khmer, tục hỏa thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp ” Pì chét đẩy ” xây cạnh ngôi chính điện trong chùa. Tuy nhiên, những người chết bất đắc kỳ tử như chết đuối, chết dịch bệnh hoặc ít tuổi ( trẻ con ) đem chôn nơi xa với hòm vỏ như tập tục người Việt ( Thạc Nhân, 1966, 62 ). Đối với đồng bào Khmer, khi trong nhà có người lâm bệnh gần “ hấp hối ” người thân trong gia đình trong mái ấm gia đình mời sư sãi về tụng kinh. Lúc lâm chung, tổng thể bà con trong họ hàng thân tộc cũng như láng giềng trong phum sóc đều đến để tụng kinh và trợ giúp. Họ tắm cho người vừa qua đời, thay quần áo và cho xác chết vào quan tài. Sau đó, mái ấm gia đình nhờ nhà sư xem ngày giờ hỏa táng và làm lễ đưa xác đến hỏa đàn. Lúc đưa quan tài đến hỏa đàn, con cháu theo sau quan tài choàng trên đầu chiếc khăn trắng ( người Khmer không để tang như người Việt ) mếu máo kể lể. Đám tang đi cũng có cờ phướn ( vải trắng ), phu xe … Đến hỏa đàn, nhà sư làm lễ cầu cho linh hồn người chết cùng bà con đi theo linh cữu rồi để quan tài lên hỏa đàn và phát lửa. Thiêu xong, lấy tro xương cho vào tháp nhỏ ( vật liệu của tháp tùy thuộc vào năng lực kinh tế tài chính của từng mái ấm gia đình ) sau đó để vào tháp lớn ở chùa .
Theo phong tục của người Khmer, xem ngày thiêu xác phải cẩn trọng ( nhất là ngày thứ 3 trong tuần thì không được lập giàn hỏa ). Nếu lập ngày đó, con cháu về sau làm ăn không tốt. Trường hợp đang tiến hành lễ hỏa táng, nếu trời mưa người Khmer cũng tin rằng đó là điềm không lành sẽ mang đến những xấu số cho gia chủ và con cháu .

3. Về văn hóa dân gian, giáo dục và lễ hội

Văn hóa dân gian, người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười. Bên cạnh đó, họ còn có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo Nam Tông Khmer Nam bộ, ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú – những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Đối với đồng bào Khmer, những đợt nghỉ lễ quan trọng trong năm cũng chính là những dịp tổ chức triển khai những hình thức hoạt động và sinh hoạt dân gian. Ca hát có vần điệu giống như ca dao Nước Ta, thường có hai nhịp mau và chậm. Lối hát được người Khmer ưa thích là hát “ azay ” cùng với cây đàn cán dài có 2 dây. Điệu múa lâm thôn đặc biệt quan trọng được đồng bào Khmer yêu quý. Dàn nhạc ngũ âm là nhạc khí đặc trưng của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long .
Vấn đề giáo dục của người Khmer có những nét đặc biệt quan trọng, đồng bào có một mạng lưới hệ thống văn tự rất sớm. Đa phần, mạng lưới hệ thống giáo dục do những nhà sư trong chùa đảm nhiệm. Người Khmer rất coi trọng việc học tập, nhất là học tiếng dân tộc, kinh Phật theo tiếng Pali ( Phan An, 1985, 25 ) .
Lễ hội và phong tục tập quán của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long thường hòa quyện vào nhau. Trong từng lễ ( bund ) có nhiều nghi thức ( pithi ). Ở mỗi nghi thức đơn cử đều có sự xen kẽ giữa yếu tố tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Các tiệc tùng của người Khmer gắn với hoạt động và sinh hoạt thường ngày. Người Khmer không có sự phân biệt “ rạch ròi ” giữa phong tục tập quán với tiệc tùng, những yếu tố lễ và hội quyện vào nhau cho tất cả chúng ta thấy sự đa dạng và phong phú của tiệc tùng dân tộc. Lễ hội của đồng bào Khmer gắn liền với đạo đức, lối sống và ước nguyện của con người trong đời sống. Đồng bào thực thi những nghi lễ mong sao cho quan hệ giữa con người và vạn vật thiên nhiên tốt hơn .

4. Kết luận

Người Khmer là một trong những dân tộc ít người trong hội đồng những dân tộc Nước Ta cư trú ở đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer thuộc nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, cư trú theo dạng công xã. Họ có một nền văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn đa dạng và phong phú rực rỡ, tác động ảnh hưởng đậm nét văn hóa truyền thống Ấn Độ và Phật giáo. Họ là những người nông dân sống ở nông thôn. Người Khmer xuất hiện hầu khắp những tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nông nghiệp cũng gắn liền với những tàn dư tín ngưỡng và những nghi lễ mang sắc thái riêng. Tín ngưỡng thờ Arak và Neak tà rất thông dụng so với đồng bào Khmer. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được xem là di sản rực rỡ của văn hóa truyền thống Khmer .
Phật giáo Nam Tông Khmer Nam Bộ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống. Ngôi chùa mang một tình cảm rất thiêng liêng và thâm thúy. Chùa là hình tượng niềm tin của hội đồng dân cư cũng như so với từng cá thể trong sóc. Sinh hoạt tôn giáo sôi động, liên hoan tôn giáo và tiệc tùng dân gian cũng như những hình thức diễn xướng dân gian vẫn được bảo lưu, tuy có suy giảm về một số ít nghi lễ tín ngưỡng dân gian .
Xét về phương diện hoạt động và sinh hoạt văn hoá hội đồng, về ý thức tâm ý và tình cảm hội đồng thì phum sóc của người Khmer là một đơn vị chức năng xã hội khép kín mang tính hướng nội. Chính thế cho nên, tính hội đồng vững chắc, thâm thúy và vĩnh cửu trong lịch sử vẻ vang. Đó chính là khoảng trống sống sót mà trong đó văn hoá dân tộc giữ gìn và tăng trưởng .

Tài liệu tham khảo

Lê Hương. ( 1969 ). Người Việt gốc Miên. Nhà xuất bản Hồ Chí Minh .
http://www.ubdt.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=509
Nguyễn Xuân Nghĩa. ( 1979 ). Tín ngưỡng thờ Arak và Neak Ta. Tạp chí Dân tộc học, số 3 .

Nguyễn Xuân Nghĩa. (1984). Đạo Phật tiểu thừa Khmer ở vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4. Hà Nội.

Phan An. ( 1985 ). Nghiên cứu về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Dân tộc học, số 3 .
Thạc Nhân. ( 1966 ). Tìm hiểu văn hóa truyền thống và xã hội người Việt gốc Miên. Văn hóa Nguyệt san, bộ mới số 1 .