Ngữ hệ Ấn-Âu – Wikipedia tiếng Việt

Ngữ hệ Ấn-Âu là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn nguyên Iran và miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Một số ngôn ngữ Ấn-Âu, chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha đã lan rộng nhờ làn sóng thuộc địa hóa của người châu Âu và hiện được sử dụng trên khắp thế giới. Hệ Ấn-Âu được chia thành nhiều nhánh, lớn nhất phải kể đến đó là các nhóm Ấn-Iran, German, Rôman và Balt-Slav. Các ngôn ngữ có số người nói lớn nhất là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Hindustan (tiếng Hindi/Urdu), tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Bengal, tiếng Marathi, tiếng Punjab và tiếng Nga (mỗi thứ tiếng có hơn 100 triệu người nói). Tiếng Đức, Pháp, Ý và Ba Tư đều có hơn 50 triệu người nói. Tổng cộng, 46% dân số thế giới (3,2 tỷ người) có tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Ấn-Âu, đông đảo nhất so với bất kỳ ngữ hệ nào khác. Theo ước tính của Ethnologue, có khoảng 445 ngôn ngữ Ấn-Âu đang được sử dụng, hơn 2/3 (313) trong số đó thuộc nhánh Ấn-Iran.[2]

Tất cả các ngôn ngữ Ấn-Âu đều bắt nguồn từ một ngôn ngữ mẹ duy nhất theo các nhà ngôn học, gọi là tiếng Ấn-Âu nguyên thuỷ, được nói ở một thời điểm nào đó vào thời đại đồ đá mới. Quê nhà/urheimat (nơi xuất xứ của một ngữ hệ) chính xác của tiếng Ấn-Âu vẫn chưa được tìm ra và là chủ đề của nhiều học thuyết cạnh tranh; trong đó có thuyết Kurgan hiện đang rất được đề cao, suy đoán nơi xuất xứ của tiếng Ấn-Âu nguyên thuỷ ở vùng thảo nguyên Pontus–Caspi, gắn liền với nền văn hóa Yamna có niên đại khoảng 3000 năm TCN. Vào thời điểm những bản ghi chép đầu tiên được con người lưu lại, ngữ hệ Ấn-Âu đã phân tách thành nhiều ngôn ngữ độc lập khác nhau, được nói trên hầu khắp châu Âu, Tây và Nam Á. Văn liệu của ngôn ngữ Ấn-Âu xuất hiện vào thời kỳ đồ đồng dưới dạng tiếng Hy Lạp Mycenaea và các ngôn ngữ Anatolia (tiếng Hitti và tiếng Luwia). Tuy vậy, tư liệu Ấn-Âu lâu đời nhất là một số từ vựng và tên riêng tiếng Hitti (được ghi xen kẽ trong các văn bản tiếng Akkad thuộc ngữ tộc Semit) xuất hiện lẻ tẻ trong một số văn bản cổ tại di chỉ Kültepe của người Assyria miền đông Tiểu Á vào thế kỷ XX TCN.[3] Mặc dù người Ấn-Âu nguyên thuỷ cổ hơn không để lại bất kỳ văn liệu nào, một số khía cạnh về văn hóa và tôn giáo của họ có thể được phục dựng từ những bằng chứng sau này của các nền văn hóa hậu duệ.[4]

Hệ Ấn-Âu có ý nghĩa rất quan trọng so với nghành ngôn ngữ học lịch sử vẻ vang vì nó chiếm hữu lịch sử dân tộc được ghi chép cổ thứ hai so với bất kể hệ nào được biết đến, chỉ đứng sau ngữ hệ Phi-Á với tiếng Ai Cập và những ngôn từ Semit rất cổ. Phân tích mối liên hệ giữa những ngôn từ Ấn-Âu và phục dựng lại nguồn gốc chung giữa chúng là trọng tâm cho sự tăng trưởng phương pháp luận ngôn ngữ học lịch sử vẻ vang, đưa nghành này thành một ngành khoa học hàn lâm thật sự vào thế kỷ XIX .

Hệ Ấn-Âu hiện không có liên hệ với bất kỳ ngữ hệ nào khác, mặc dù một số đề xuất gây tranh cãi vẫn đã được đưa ra.

Lịch sử ngôn ngữ học Ấn-Âu[sửa|sửa mã nguồn]

Vào thế kỷ XVI, những người châu Âu đi đến tiểu lục địa Ấn Độ khởi đầu nhận ra những nét tương tự như giữa những ngôn từ Ấn-Arya, Iran, và châu Âu. Năm 1583, nhà truyền giáo Dòng Tên người Anh Thomas Stephens tại Goa đã viết một lá thư cho người thân trong gia đình ( không được công bố cho tới tận thế kỷ XX ), [ 5 ] mà trong đó ông đề cập đến sự tương đương giữa ngôn từ Ấn Độ ( đặc biệt quan trọng là tiếng Phạn ) với tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh .

Filippo Sassetti, một nhà buôn sinh ra tại Florence năm 1540, cũng nhận thấy điều tương tự khi đi đến Ấn Độ. Năm 1585, ông ghi nhận một số sự tương đồng từ vựng giữa tiếng Phạn và tiếng Ý (gồm devaḥ/dio “chúa”, sarpaḥ/serpe “rắn”, sapta/sette “bảy”, aṣṭa/otto “tám”, và nava/nove “chín”).[5] Tuy nhiên, quan sát của Stephens và Sassetti đã không dẫn đến nghiên cứu chuyên sâu hơn nào.[5]

Năm 1647, học giả và nhà ngôn ngữ học người Hà Lan Marcus Zuerius van Boxhorn chú ý đến nét tương tự ở một số ngôn ngữ châu Á và châu Âu nhất định, và cho rằng chúng xuất phát một ngôn ngữ chung gọi là Scythia. Các ngôn ngữ trong giả thuyết của ông gồm tiếng Hà Lan, tiếng Albania, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Ba Tư, và tiếng Đức, sau đó cho thêm vào các ngôn ngữ Slav, các ngôn ngữ Celt, và các ngôn ngữ gốc Balt. Ý kiến của Van Boxhorn không phổ biến và cũng không giúp khuyến khích nghiên cứu sâu hơn.

Thomas Young lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ Indo-European năm 1813, dựa trên phân bố địa lý của hệ này: từ Tây Âu tới Bắc Ấn Độ.[6][7] Từ đồng nghĩa Indo-Germanic (Ấn-German, Idg. hay IdG.), xuất hiện năm 1810 bằng tiếng Pháp (indo-germanique) trong nghiên cứu của Conrad Malte-Brun; thuật ngữ này hiện bị xem là lỗi thời và ít phổ biến hơn Indo-European, dù trong tiếng Đức indogermanisch vẫn là thuật ngữ chuẩn.

Sơ đồ cây phát sinh của ngữ hệ Ấn Âu [8]Cây phát sinh của ngữ hệ Ân Âu trích từ ” Ancestry-constrained phylogenetic analysis of Indo-European languages ” bởi Chang và tập sựNgữ hệ Ấn-Âu được chia thành 10 nhánh chính, được liệt kê dưới đây theo thứ tự bảng vần âm :
Ngoài mười nhánh cổ xưa được liệt kê ở trên, 1 số ít ngôn từ và nhóm ngôn từ Ấn-Âu đã tuyệt chủng, ít được biết đến hơn đã sống sót hoặc được đề xuất kiến nghị là đã sống sót :

Các ngôn từ satem và centum[sửa|sửa mã nguồn]

 Xanh: nhóm centum

 Đỏ: nhóm satem

 Cam: nhóm có tiền tố augment

 Lục: nhóm có âm PIE *-tt- > -ss-

 Nâu: nhóm có âm PIE *-tt- > -st-

 Hồng: nhóm có âm cuối biểu thị số nhiều, cách phương tiện, dữ cách và ly cách ở âm *-m- hơn là âm *-bh-

Các đường đồng ngữ tiêu biểu vượt trội của những ngôn từ hậu duệ của tiếng Proto Ấn-Âu vào thời gian 500 TCN .

Việc phân chia các ngôn ngữ Ấn-Âu thành các nhóm satem và centum được nhà ngôn ngữ học Peter von Bradke đưa ra vào năm 1890, mặc dù Karl Brugmann đã đề xuất một kiểu phân loại tương tự vào năm 1886. Ở các ngôn ngữ satem, bao gồm nhánh Balto-Slav và Ấn-Iran, cũng như (về hầu hết các khía cạnh) Albania và Armenia, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa của Proto-Ấn-Âu được phục dựng vẫn khác biệt và thường bị xát hóa, trong khi các âm ngạc mềm-môi hòa lẫn với ‘các âm ngạc mềm thường’. Ở các ngôn ngữ centum, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa này hòa lẫn với các ngạc mềm thường, trong khi các âm ngạc mềm-môi vẫn khác biệt. Ví dụ như từ “một trăm” trong tiếng Avesta (satem) và tiếng Latinh (centum) — âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa ban đầu đã biến thành âm [s] xát ở Avesta, nhưng thành âm ngạc mềm [k] thường ở Latinh.

Đặc điểm này không phải là sự phân tách theo phả hệ, sự phân loại centum – satem thường được coi là hiệu quả của những biến hóa lan rộng trên những nhánh phương ngữ PIE trên một khu vực địa lý đơn cử ; đường đồng ngữ centum – satem giao với một số ít đường đồng ngữ khác ghi lại sự độc lạ giữa những đối tượng người tiêu dùng địa lý trong những nhánh IE sớm. Có thể là những nhánh centum trên trong thực tiễn phản ánh thực trạng khởi đầu của tiếng PIE, và chỉ những nhánh satem san sẻ một loạt những thay đổi, tác động ảnh hưởng đến tổng thể những khu vực ngoại vi của liên tục phương ngữ PIE. [ 23 ] Kortlandt yêu cầu rằng tổ tiên của tiếng Balt và Slav đã bị satem hóa trước khi bị ảnh hưởng tác động bởi tây Ấn-Âu. [ 24 ]

Proto Ấn-Âu / Ấn-Âu nguyên thủy[sửa|sửa mã nguồn]

Tiếng Proto-Ấn-Âu ( PIE ) được yêu cầu là tổ tiên chung được tái tạo của những ngôn từ Ấn-Âu, được nói bởi người Proto-Ấn-Âu ( sắc tộc ngôn từ ). Từ những năm 1960, kiến ​ ​ thức về tiếng Anatolia đã đủ chắc như đinh để thiết lập mối quan hệ của nó với PIE. Sử dụng giải pháp nội phục dựng, một tiến trình trước đó, gọi là Tiền Proto-Ấn-Âu, đã được yêu cầu .PIE là một ngôn từ biến tố, trong đó những mối quan hệ ngữ pháp giữa những từ được báo hiệu trải qua những hình vị biến tố ( thường ở cuối một từ ). Từ gốc của PIE là những hình vị cơ bản mang một ý nghĩa từ vựng. Các hậu tố được thêm vào để tạo thành những thân từ, và bằng cách thêm vào những phần cuối, chúng lại tạo thành những từ biến tố ( danh từ hoặc động từ ). Hệ thống động từ Ấn-Âu được phục dựng rất phức tạp và giống như danh từ, bộc lộ tính biến âm sắc .

Đa dạng hóa[sửa|sửa mã nguồn]

Về mặt lịch sử vẻ vang, sự đa dạng hóa ngôn từ mẹ thành những nhánh ngôn từ con chưa được xác nhận. Tuy vậy, dòng thời hạn của sự tiến hóa của những ngôn từ con hầu hết không còn gì để bàn cãi, bất kể câu hỏi về nguồn gốc Ấn-Âu .Sử dụng giải pháp nghiên cứu và phân tích toán học vay mượn từ sinh học tiến hóa, Don Ringe và Tandy Warnow yêu cầu cây tiến hóa của những nhánh Ấn-Âu sau đây :

  • Tiền-Anatolia (trước 3500 TCN)
  • Tiền-Tocharia
  • Tiền-Italia và Tiền-Celt (trước 2500 TCN)
  • Tiền-Armenia và Tiền-Hy Lạp (sau 2500 TCN)
  • Proto-Ấn-Iran (2000 TCN)
  • Tiền-German và Tiền-Balt-Slav; proto-German khoảng 500 TCN

David Anthony đề xuất trình tự sau :

  • Tiền-Anatolia (4200 TCN)
  • Tiền-Tocharia (3700 TCN)
  • Tiền-German (3300 TCN)
  • Tiền-Italia và Tiền-Celt (3000 TCN)
  • Tiền-Armenia (2800 TCN)
  • Tiền-Balt-Slav (2800 TCN)
  • Tiền-Hy Lạp (2500 TCN)
  • Proto-Ấn-Iran (2200 TCN); tách ra giữa Iran và Cổ Ấn 1800 TCN

Các đổi khác về âm vị[sửa|sửa mã nguồn]

Khi tiếng Proto-Ấn-Âu ( PIE ) khởi đầu phân tách thành những nhánh con, mạng lưới hệ thống âm thanh của nó cũng khởi đầu biến hóa theo những quy luật âm thanh khác nhau, được dẫn chứng trong những ngôn từ con sau này .

Hệ thống âm vị PIE rất phức tạp, sở hữu 15 phụ âm dừng, bao gồm sự phân biệt bất thường giữa ba âm kêu là các âm dừng vô thanh, hữu thanh và “hữu thanh bật hơi”, và sự phân biệt bất thường giữa ba loại phụ âm ngạc mềm (âm loại k) là “âm vòm” ḱ ǵ ǵh, “ngạc mềm thường” k g gh và ngạc mềm-môi kʷ gʷ gʷh. (Tính chính xác của các thuật ngữ âm vòm và ngạc mềm thường còn bị tranh cãi) Tất cả các ngôn ngữ con đều tiêu giảm số lượng khác biệt giữa các âm thanh này theo những con đường khác nhau.

Ví dụ tiếng Anh thuộc ngữ tộc German, biểu lộ những biến hóa ngữ âm sau đây :

  1. Giống như trong các ngôn ngữ centum khác, các âm dừng “ngạc mềm thường” và “vòm/ngạc cứng” hợp nhất, giảm số lượng âm dừng từ 15 xuống còn 12.
  2. Giống như trong các ngôn ngữ German khác, sự chuyển đổi âm thanh German đã thay đổi cách phát âm của tất cả các phụ âm dừng, với mỗi phụ âm chuyển sang một phụ âm khác:
    bʰ → b → p → f
    dʰ → d → t → θ
    gʰ → g → k → x (Âm đầu x sau này →h)
    gʷʰ → gʷ → kʷ → xʷ (Âm đầu xʷ sau này →hʷ)

    Mỗi phụ âm gốc bị dịch chuyển một bước về bên phải. Ví dụ, âm dʰ gốc trở thành âm d, còn âm d gốc lại trở thành âm t và âm t gốc lại trở thành âm θ (phát âm chữ th trong từ “thin” của tiếng Anh). Đây là lí do trong tiếng Anh các chữ f, th, hwh lại được phát âm như hiện giờ. Các ví dụ sau đây so sánh tiếng Anh với tiếng La-tinh, một ngôn ngữ không có biển chuyển gì nhiều về mặt ngữ âm:

    Âm PIE p: piscis “cá” so với fish; pēs, pēdis “chân” so với foot; pluvium “mưa” so với flow; pater “cha” so với father
    Âm PIE t: trēs “ba” so với three; māter “mẹ” so với mother
    Âm PIE d: decem “mười” so với ten; pēdis “chân” so với foot; quid “gì” so với what
    Âm PIE k: centum “trăm” so với hund(red); capere “lấy” so với have
    Âm PIE : quid “gì” so với what; quandō “khi nào” so với when
  3. Phụ âm ở giữa và cuối một từ sau này tiếp tục thay đổi:
    • Các âm dừng hữu thanh đã biến âm từ trước bị mềm hóa và chuyển thành các âm xát.
    • Định luật Verner biến các âm xát vô thanh đã biến âm từ trước thành các âm xát hoặc âm dừng hữu thanh. Đây là lí do tại sao âm t trong từ centum của tiếng Latinh tương đương với âm d trong từ hund(red) thay vì phải là âm th theo quy luật biến âm trước tiên đoán.
    • Hầu hết các âm h còn lại bị tiêu biến, còn các âm fth còn sót lại trở thành các âm hữu thanh. Ví dụ, decem của Latinh tương đương với ten của tiếng Anh mà không có âm h ở giữa (ta có từ taíhun “mười” trong tiếng Gothic, một ngôn ngữ German đã tuyệt chủng). Tương tự, từ seven “bảy” và have “có” sở hữu âm v hữu thanh (so với các từ Latinh septemcapere), trong khi đó từ father “cha” và mother “mẹ” sở hữu âm th hữu thanh (so với các từ Latinh patermāter).

So sánh sự chia động từ[sửa|sửa mã nguồn]

Proto-Ấn-Âu
(*bʰer-
Tôi (sở hữu cách ngôi thứ nhất) *bʰéroh₂
Bạn (sở hữu cách ngôi thứ hai) *bʰéresi
Anh ấy/Cô ấy/Nó (sở hữu cách ngôi thứ ba) *bʰéreti
Hai ta (dual ngôi thứ nhất) *bʰérowos
Hai bạn (dual ngôi thứ hai) *bʰéreth₁es
Hai người họ (dual ngôi thứ ba) *bʰéretes
Chúng ta (số nhiều ngôi thứ nhất) *

bʰéromos

Các bạn (số nhiều ngôi thứ hai) *bʰérete
Bọn họ (số nhiều ngôi thứ ba) *bʰéronti

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Các cơ sở tài liệu[sửa|sửa mã nguồn]