Ngành dệt may cần tập trung mở rộng thị trường xuất khẩu và làm chủ thị trường nội địa

TCCTDưới góc nhìn người đứng đầu một tổ chức nghiên cứu khoa học chuyên ngành phục vụ đắc lực cho ngành Dệt May Việt Nam phát triển, ông Phạm Văn Lượng, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Viện nghiên cứu Dệt May vừa có những chia sẻ về Dự thảo Chiến lược phát triển ngành Dệt May và Da Giày từ năm 2021 đến năm 2030, tầm nhìn từ 2030 – 2045. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

Ông Phạm Văn Lượng, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Viện nghiên cứu Dệt  May
Ông Phạm Văn Lượng, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Viện Nghiên cứu Dệt May

TCCT: Thưa ông, đứng trên vai trò là người đứng đầu một tổ chức nghiên cứu khoa học chuyên Ngành phục vụ đắc lực cho ngành Dệt May Việt Nam, xin ông đánh giá về sự cần thiết trong việc ban hành Chiến lược Quy hoạch tổng thế Ngành trong giai đoạn tầm nhìn mới hiện nay?

Ông Phạm Văn Lượng: Ngày 10 tháng 3 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg phê duyệt, Chiến lược phát triển  ngành Công nghiệp Dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.

Trong tiến trình 2008 – 2020, ngành Dệt May Nước Ta đã lôi cuốn được nguồn lực của mọi thành phần kinh tế tài chính vào góp vốn đầu tư phát triển ngành, phân phối được nhu yếu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ; đến nay đã trở thành một trong những ngành xuất khẩu nòng cốt của Nước Ta .
Dệt may Nước Ta đã trở thành nhà xuất khẩu có lệch giá thuộc top 3 quốc tế. Ngành dệt may hiện sử dụng trên 3 triệu lao động, trong đó hơn 1,3 triệu lao động công nghiệp, chiếm tỉ trọng trên 10 % so với lao động công nghiệp cả nước. Dệt may Nước Ta đang là ngành công nghiệp quan trọng cho sự phát triển của quốc gia .
Tuy nhiên, ngành Dệt may Nước Ta còn có nhiều chưa ổn, biểu lộ ở 1 số ít mặt như :
( i ) Xuất phát điểm của ngành may Nước Ta còn thấp ;

(ii) Công nghiệp hỗ trợ ngành may kém phát triển (70% nguyên phụ liệu vẫn phải dựa vào nhập khẩu từ nước ngoài), do vậy tuy kim ngạch xuất khẩu cao nhưng tỷ lệ thu về lại thấp,

( iii ) Tỷ lệ gia công cao, hàm lượng giá trị ngày càng tăng thấp, thiếu năng lực cung ứng trọn gói ;
( iv ) Thiếu nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng. Hàm lượng nội địa chủ yếu là nhân công có trình độ kỹ năng và kiến thức thấp hoặc trung bình, được sử dụng tích hợp với máy móc thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu ;
( v ) Môi trường cạnh tranh đối đầu vương quốc còn chậm được cải tổ, thủ tục chậm và phiền hà, nhiều ngân sách còn cao so với khu vực và quốc tế ;
( vi ) quan hệ lao động diễn biến phức tạp, ngân sách lao động tăng nhanh, dịch chuyển lao động lớn ( 20-30 % / năm ) .
Lợi thế cạnh về giá của Nước Ta đang dần mất đi khi những vương quốc khác cũng đang cố gắng nỗ lực cạnh tranh đối đầu bằng việc cung ứng lao động giá rẻ hơn hoặc trải qua những giải pháp nâng cao hiệu suất tích cực hơn .

Việt nam đã tham gia và ký kết nhiều thỏa thuận thương mại tự do (FTA) trong đó có các thị trường tiềm năng lớn về dệt may (EU, Mỹ, châu Á -Thái Bình Dương, trong đó nổi bật là các Hiệp định thế hệ mới CPTPP, EVFTA, Hiệp định song phương Việt Nam – Mỹ là động lực mở rộng thị trường và thu hút đầu tư vào lĩnh vực dệt may.

Hơn nữa, nhiều Hiệp định thương mại tự do đã ký kết hầu hết đều có pháp luật về nguồn gốc từ những nước xuất khẩu hoặc cộng gộp trong nội khối ( EVFTA từ vải ; CPTPP từ sợi ) trong khi đây lại là khâu yếu nhất của dệt may Nước Ta. Việc lôi cuốn góp vốn đầu tư quốc tế vào ngành dệt nhuộm cũng đồng nghĩa tương quan những doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh đối đầu ngày càng nóng bức với những doanh nghiệp FDI
Bên cạnh đó, yên cầu của những người mua trên quốc tế ngày càng cao về chất lượng mẫu sản phẩm, chi phí sản xuất và thời hạn giao hàng. Xu hướng “ Thời trang vững chắc, tuần hoàn ”, sẽ ngày càng trở nên thông dụng và được chuyển tải vào trong những nhu yếu tuân thủ của những nước, những nhãn hàng trong chuỗi đáp ứng toàn thế giới ngày một cao, yên cầu ngành dệt may Việt nam phải có sự quy đổi cơ bản trong tổ chức triển khai, quản trị, vận dụng công nghệ tiên tiến xanh, sạch, vững chắc .

Xu hướng mua hàng của các nhà nhập khẩu lớn trên thế giới đang thay đổi, các nhà mua hàng lớn tại Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu muốn chọn những doanh nghiệp có khả năng sản xuất trọn gói, từ kéo sợi, dệt vải cho đến cắt, may sản phẩm cuối.

Xu hướng vận dụng công nghệ tiên tiến số, tự động hoá, công nghệ tiên tiến vật tư, công nghệ tiên tiến sịnh học cung ứng thêm nhiều lựa chọn cho doanh nghiệp dệt may ứng dụng những công nghệ tiên tiến này vào sản xuất, giúp tăng hiệu suất và hiệu suất cao sản xuất .
Xu hướng chuyển dời chuỗi sản xuất và đáp ứng hàng dệt may từ những nước và vùng chủ quyền lãnh thổ như Nước Hàn, Đài Loan, đặc biệt quan trọng là Trung Quốc sang những nước có lợi thế lao động. Nước Ta được lựa chọn là một điểm đến mê hoặc để đầu tư sản xuất dệt may trong chuỗi đáp ứng dệt may toàn thế giới
quy hoạch tổng thể dệt may cần dựa trên ba điều cốt yếu: cơ sở hạ tầng giao thông, cơ chế chính sách
Nhiều chuyên gia nghiên cứu chuyên ngành cho rằng: Quy hoạch tổng thể dệt may cần dựa trên ba điều cốt yếu: cơ sở hạ tầng giao thông, cơ chế chính sách (nhất là tiết giảm chi phí logistics và chi phí ngoài DN), lộ trình đào tạo và hỗ trợ đào tạo nhân sự. 

Những phân tích ở trên cho thấy ngành Dệt may Việt Nam đang đứng trước sức ép cạnh tranh phải thay đổi để tồn tại và phát triển. Với mục tiêu đưa ngành dệt may phát triển vững chắc trong các giai đoạn tới, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và phù hợp với tốc độ phát triển chung của toàn ngành công nghiệp trong thời kỳ 2021-2030 và sau năm 2030 thì việc xây dựng nhiệm vụ “Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” là cần thiết.

TCCT : Chiến lược Quy hoạch Ngành nếu được trình lên Thủ tướng nhà nước và được phê duyệt, phát hành sớm, sẽ tạo hành lang pháp lý, kêu gọi sự tham gia của những cấp từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt quan trọng là địa phương và doanh nghiệp. Như vậy, việc thiết kế xây dựng Chiến lược nên tập trung chuyên sâu vào những khuynh hướng mới như thế nào thưa ông ?

Ông Phạm Văn Lượng: Theo tôi, việc quy hoach Chiến lược phát triển Ngành nên xác định rõ được các quan điểm sau:

Trước hết phải xác lập rõ những quan điểm chính phát triển dệt may trong thời hạn tới : Các khuynh hướng chính cần tập trung chuyên sâu để ngành dệt may lan rộng ra thị trường xuất khẩu và làm chủ thị trường trong nước .
Cụ thể như sau :

Ngành dệt may định hướng xuất khẩu là động lực chính, quan trọng cho phát triển; Tận dụng các cơ hội từ các FTA đã ký kết, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và phát triển tối đa thị trường nội địa.

  1. Ngành dệt may định hướng xuất khẩu là động lực chính, quan trọng cho phát triển; Tận dụng các cơ hội từ các FTA đã ký kết, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và phát triển tối đa thị trường nội địa.
  2. Thu hút mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển ngành dệt may theo hướng: hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất trong nước, phát triển được một số thương hiệu mang tầm khu vực và thế giới.
  3. Phát triển ngành Dệt may theo hướng bền vững, tuần hoàn phù hợp với yêu cầu của các nhãn hàng và các cam kết quốc tế thông qua đổi mới thiết bị, công nghệ, phương thức quản lý, tập trung phát triển các sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và phù hợp xu thế tiêu dùng của xã hội.
  4. Khuyến khích đầu tư sản xuất sợi, vải trong nước, đáp ứng yêu cầu chất lượng cho may xuất khẩu, quy tắc xuất xứ của các FTA thế hệ mới, cũng như đẩy mạnh quá trình nội địa hóa, để cải thiện và giảm nhanh khoảng cách chênh lệch về trình độ, và năng suất với các nước có ngành dệt phát triển cao hơn.
  5. Xây dựng một số khu công nghiệp ngành Dệt may đồng bộ (bao gồm chuỗi sợi-dệt-nhuộm, hoàn tất vải-may mặc), hình thành chuỗi giá trị và cung ứng hoàn chỉnh giữa sản xuất sợi, vải, may và sản xuất nguyên, phụ liệu; Ưu tiên dự án sử dụng công nghệ hiện có tốt nhất, có quy trình sản xuất đồng bộ, đáp ứng các yêu cầu về sản xuất dệt may bền vững, tuần hoàn;
  6. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật, thiết kế và công nhân lành nghề để tạo ra lợi thế cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu phát triển trong hội nhập.

TCCT : Hiện nay, việc sản xuất nguyên phụ liệu, nhất là vải vẫn là khâu yếu và điểm nghẽn của ngành dệt may. Theo ông đâu là nguyên trong nhiều năm qua, ngành Dệt May chưa thể tháo gỡ vấn đền này ?

Ông Phạm Văn Lượng: Thực tiễn và công nghệ sản xuất trước đây trong ngành dệt may đã tạo ra định kiến chưa được tháo gỡ là nhiều địa phương, cho rằng ngành dệt may thuộc số những ngành gây ô nhiễm môi trường và các nước phát triển đã dịch chuyển các công đoạn gây ô nhiễm sang các nước chậm phát triển hơn, có quy định về môi trường ít khắt khe hơn.

Tuy nhiên cần phải thấy một thực tiễn là những doanh nghiệp quốc tế nói chung và những doanh nghiệp FDI lớn đã góp vốn đầu tư tại Nước Ta đều rất thành công xuất sắc và là những nhà phân phối vải rất tiềm năng trong chuỗi đáp ứng toàn thế giới

Điều quan trọng để các doanh nghiệp được tham gia vào chuỗi đều ứng dụng các công nghệ theo hướng bền vững, tuần hoàn đáp ứng với các yêu cầu ngày một cao của chuỗi cung ứng: sử dụng các nguyên liệu, hóa chất thuốc nhuộm xanh; ứng dụng các công nghệ hiện có tốt nhất, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, hệ thống quản lý môi trường, quản lý hóa chất được thừa nhận của chuỗi cung ứng toàn cầu.

Việc đáp ứng các yêu cầu của chuỗi cung ứng toàn cầu là cơ sở để đáp ứng các tiêu chuẩn về sản xuất bền vững: có trách nhiệm xã hội, không sử dụng các hóa chất có hại, sử dụng nguyên liệu và công nghệ sản xuất tiết kiệm nước, năng lượng, đáp ứng các yêu cầu phát thải ra nguồn nước, không khí.

Vì vậy ý niệm ngành dệt nhuộm là ngành gây ô nhiễm và từ đó hạn chế những dự án Bất Động Sản dệt nhuộm góp vốn đầu tư tại một số ít địa phương không còn tương thích, làm đứt gãy chuỗi đáp ứng, bỏ qua những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư mang lại giá trị ngày càng tăng cao cho địa phương .

Trong thời gian tới, Việt Nam cần có chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp sử dụng công nghệ dệt nhuộm bền vững để ngành dệt may Việt Nam phát triển xanh hơn, bền vững hơn. Chỉ có như vậy, ngành dệt may mới có thể giải quyết được những yếu kém trong sản xuất dệt nhuộm, tạo thêm nguồn nguyên liệu sợi, vải đạt tiêu chuẩn chất lượng cho may xuất khẩu.

TCCT : Trân trọng cảm ơn ông !