Bác sĩ tâm thần

Tôi gặp anh năm 2017, khi mắc một căn bệnh rất khó hiểu .Tôi tiếp tục bị lên những cơn tăng huyết áp, tăng nhịp tim, vã mồ hôi và hoảng sợ liên tục. Trong những cơn như vậy, tôi nghĩ mình sắp chết .Tôi đi cấp cứu vài lần một tháng. Ba bệnh viện lớn đều chẩn đoán dựa trên triệu chứng thực thể, tìm nguyên do tăng huyết áp theo cơn của tôi. Giả thuyết lớn nhất là tôi bị yếu tố tim mạch hoặc u tuyến thượng thận. Tuy vậy, siêu âm tim, chụp mạch, chụp cắt lớp toàn khung hình không cho thấy không bình thường. Tới bệnh viện nào, tôi cũng phải làm đi làm lại những xét nghiệm tương tự như .

Vật vã nhiều tháng trời, tôi gần như không thể làm việc và sinh hoạt bình thường. Có lúc, tôi không dám tự đi một mình từ nhà ra ngõ. Tôi không biết làm gì ngoài chờ cơn bệnh đến.

Bạn đang đọc: Bác sĩ tâm thần

Một ngày, tôi chợt nghĩ ” hay mình mắc bệnh tương quan tới thần kinh ” và mở màn tìm hiểu và khám phá. Tôi đọc cuốn ” The Lancet – Tiếp cận xử trí trong thần kinh học ” và ý kiến đề nghị được khám chuyên khoa tâm thần. Một bác sĩ trẻ của Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, đã chẩn đoán rất nhanh rằng tôi bị hội chứng Rối loạn hoảng sợ trên nền Rối loạn lo âu lan tỏa. Không nhu yếu thêm bất kể xét nghiệm thực thể nào, anh kê đơn và tôi vượt qua căn bệnh sau đó vài tháng .Rối loạn hoảng sợ rất thông dụng. Khoảng 1,7 % dân số Mỹ từ 18 tới 54 tuổi mắc bệnh này. Bệnh không có gì lạ. Điều lạ là bác sĩ tại ba bệnh viện lớn ở TP. Hà Nội không ai nghĩ tôi bị bệnh niềm tin mà chỉ đi tìm nguyên do thực thể. Tôi phải chẩn bệnh cho mình .Khi san sẻ câu truyện của mình trên mạng, tôi được nhiều người mắc những hội chứng rối loạn tâm thần khác nhau nhờ tư vấn cách điều trị. Tôi bỗng trở thành ” bác sĩ tâm thần ” bất đắc dĩ .Thực tế, tôi chỉ lắng nghe san sẻ của họ và cung ứng liên lạc để họ tới khám bác sĩ có kinh nghiệm tay nghề. Tôi đóng vai một chuyên viên tâm ý ” nghiệp dư “, lắng nghe để người bệnh vợi bớt sợ hãi và dẫn họ tới cánh cửa trình độ .Hành trình này khiến tôi kinh ngạc. Số người mắc triệu chứng tâm thần quá đông mà số bác sĩ và chuyên gia tâm lý lại quá ít. Viện Sức khỏe tâm thần Bạch Mai thống kê, 30 % dân số Nước Ta từng bị tối thiểu một rối loạn tâm thần, 50% trong số đó cần chữa trị. Con số tự tử vì trầm cảm lên tới bốn chục nghìn người mỗi năm, xê dịch nửa số tử trận do ung thư .Tôi tham vấn cho một số ít người, hầu hết họ không biết mình đang mắc bệnh gì, đặc biệt quan trọng là người ở nông thôn. Họ sống sót trong sự chịu đựng chính mình. Họ nghĩ đơn thuần rằng ai cũng hoàn toàn có thể bị như vậy .Nhiều bệnh nhân ở đô thị biết mình bị bệnh và đi khám. Tôi đi theo một số ít bệnh nhân tới từng cơ sở trong nỗ lực tìm hiểu và khám phá mạng lưới hệ thống chữa tâm thần. Họ, như tôi rất lâu rồi, xếp hàng rất dài trước phòng khám chuyên khoa tâm thần ở những bệnh viện lớn. Bác sĩ dành vài phút để nghe triệu chứng và kê đơn ngay .

Bệnh tâm thần đòi hỏi bác sĩ phải lắng nghe nhiều, hỏi rất kỹ mới xác định đúng, nhưng sự quá tải khiến họ chưa kịp hiểu hết bệnh tình. Không ít người bị kết luận rối loạn lưỡng cực trong khi các triệu chứng chủ yếu vẫn là trầm cảm dai dẳng. Có người bị kết luận tâm thần phân liệt trong khi thực tế chỉ là trầm cảm và rối loạn giấc ngủ kéo dài.

Tôi đến phòng khám tư của vài bác sĩ. Số người chờ khám cũng đông và bác sĩ vẫn không dành được nhiều thời hạn hơn cho bệnh nhân .Thực trạng khám vội và ẩu có nguyên do lớn từ việc thiếu bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ tâm thần đang quá thấp so với dân số ở Nước Ta. Số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ) năm năm trước cho thấy, 100.000 dân của Nước Ta chỉ có 0,91 bác sĩ tâm thần, thuộc nhóm thấp nhất quốc tế. Số bác sĩ tâm thần trên 100.000 dân ở Nước Singapore là 3,48 ; Mỹ là 12,4 .Nước Ta có một bác sĩ tâm thần trên 100.000 dân là quá thấp. Người chữa trị cho tôi san sẻ, sinh viên chuyên ngành tâm thần bị coi là ” chiếu dưới ” ở những trường Y. Số lượng ĐK ngành này luôn thấp hơn so với ngành khác .Cả nước năm năm trước, cũng theo thống kê của WHO, có 36 bệnh viện tâm thần, tổng số chỉ có 6.000 giường cho những bệnh nhân nặng. Chỉ 600 cơ sở y tế có dịch vụ thăm khám tâm thần cho bệnh nhân ngoại trú, đa phần là cơ sở công .Sau bảy năm, số lượng thống kê hoàn toàn có thể đã khác, nhưng toàn cảnh hiện tại cũng rất khác so với năm trước. Covid-19 hai năm qua đã gây trầm trọng hơn về sức khỏe thể chất niềm tin cho hội đồng, người bệnh đang rất cần đủ bác sĩ tâm thần kinh nghiệm tay nghề. Nhu cầu lớn này mở ra những cánh cửa với khu vực y tế công và tư .Ngoài chính sách khuyến khích sinh viên Y khoa theo nghành nghề dịch vụ tâm thần, những chuyên ngành giảng dạy bác sĩ tâm thần có góp vốn đầu tư và link với khu vực tư cũng là một giải pháp. Ở những nước tăng trưởng, đây là ngành khó và thu nhập cao .

Với nhà đầu tư y tế, ngành sức khoẻ tâm thần là cơ hội vừa mang tính thị trường vừa mang tính xã hội cao. Bệnh nhân mong chờ những nơi thật sự uy tín để đặt niềm tin của họ. Cơ sở vật chất và chất lượng dịch vụ của các điểm chăm sóc sức khỏe tâm thần, như tôi trải nghiệm, đang ở mức đơn sơ.

Bị bệnh tâm thần, phải uống thuốc là hành trình dài rất khổ sở. Tôi đã chờ đón một bác sĩ sau khi kê đơn vài ngày sẽ gọi điện hỏi bệnh nhân rằng phản ứng của thuốc thế nào. Nhưng không có cuộc gọi nào như thế. Họ thậm chí còn còn không có đủ thời hạn khám bệnh .Một kế hoạch vương quốc với tiềm năng nâng cao tỷ suất bác sĩ tâm thần trên số dân sẽ giúp nhiều người bệnh không phải ” tự bơi ” một cách vô vọng, như tôi đã từng .

Lê Duy