Tiếng Mường – Wikipedia tiếng Việt

Tiếng Mường (thiểng Mường ) là ngôn ngữ của người Mường tại Việt Nam.

Tiếng Mường là ngôn từ thanh điệu, có mối liên hệ thân thiện với tiếng Việt và được xem như thuộc nhóm ngôn từ Việt-Mường trong ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á. Thanh điệu tiếng Mường gần với phương ngữ Thanh Hoá, Nghệ An của tiếng Việt. Tiếng Mường được nói đa phần tại những tỉnh vùng núi phía bắc Nước Ta như : Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La và Tỉnh Ninh Bình [ 4 ] .Tiếng Mường có 6 thanh như tiếng Việt ; tuy nhiên, thanh nặng chỉ được phân biệt tại những tỉnh Phú Thọ và Thanh Hóa, còn những người tỉnh Hòa Bình đọc như thanh sắc. [ 1 ] .

Lịch sử chữ viết Mường[sửa|sửa mã nguồn]

Từ lâu, người Mường đã có ý thức tạo dựng cho mình một bộ chữ viết ghi lại tiếng nói của tổ tiên mình. Hiện nay trong nhân dân vẫn còn lưu lại một số văn bản người xưa sử dụng chữ Hán để ghi lại tiếng Mường. Hiện chưa ai có thể dịch được. Tất nhiên việc này không chỉ ở người Mường, bản thân người Việt hàng nghìn năm sử dụng chữ Hán làm chữ viết quốc gia, để bây giờ hàng vạn sách của người xưa để lại có rất ít người đọc được. Các đình, chùa, miếu mạo, am đài… trong Nam, ngoài Bắc của người Việt thờ người Việt, song các đại tự, hoành phi, câu đối, gia phả… đều viết bằng chữ Hán, con cháu về thắp hương nhìn không biết là những chữ gì… Quả là việc khó khăn, vì chữ Hán rất khó học, nên việc dùng chữ Hán để ghi âm tiếng Mường càng khó hơn.

Sau 1945, Nước Ta chính thức sử dụng bộ chữ Quốc ngữ là bộ chữ cho tiếng Việt. Từ đây tiếng Hán không còn sử dụng nhiều. Nhờ có chữ Quốc ngữ nên người Nước Ta học chữ rất nhanh, trong một thời hạn ngắn đã có gần 100 % dân số biết đọc, biết viết, thật là một kì tích .Cũng từ đây những nhân sĩ, tri thức người Mường mở màn sử dụng chữ Quốc ngữ để ghi lại tiếng Mường. Kết quả là hàng vạn câu thơ Mo Mường được sưu tầm, nhiều ấn phẩm được xuất bản, tuy nhiên mỗi tác giả ghi một kiểu khác nhau, người đọc rất khó đọc. Một điều nữa, tuy tiếng Việt và tiếng Mường thân thiện, có rất nhiều từ đồng âm, tuy nhiên có nhiều âm trong tiếng Việt không có, chữ Quốc ngữ càng không có những nguyên tắc để đọc những âm này, như âm : w ( wơ ̒ ), tl ( tlơ ̒ ) …, âm l cuối âm tiết như : mâl – mây, păl – bay, kâl – cây …Thanh huyền trong tiếng Mường nhẹ hơn thành huyền trong tiếng Việt. Hệ quả là những văn bản ghi lại tiếng Mường người viết ra hoàn toàn có thể đọc tốt bằng tiếng Mường, sang đời con cháu sẽ khác, chúng không đọc được ra tiếng Mường, vì thực ra đó là mượn chữ Quốc ngữ ( tiếng Việt ) để ghi lại tiếng Mường. Các di sản văn hóa truyền thống, sách viết … đời sau hoàn toàn có thể đọc hiểu bị sai … Đó thực sự là rủi ro tiềm ẩn thêm vào để thôi thúc tiếng Mường càng nhanh có nguy cơ biến mất .Hòa Bình đang vươn lên tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ, kinh tế tài chính có bước tăng trưởng vượt bậc, tuy nhiên nền văn hóa truyền thống những dân tộc trong tỉnh như nguồn tài nguyên còn nằm dưới những lớp trầm tích, giờ đang được chăm sóc bảo tồn, gìn giữ và phát huy trong đời sống. Mo Mường – một di sản văn hóa truyền thống độc lạ, rực rỡ của người Mường Hòa Bình nói riêng, dân tộc Nước Ta nói chung đã được công nhận là Di sản văn hóa truyền thống cấp vương quốc và đang trong quy trình thiết kế xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa truyền thống phi vật thể đại diện thay mặt của quả đât. Đã có nhiều sưu tầm được in ấn, tuy nhiên mỗi bản in, những nhà sưu tầm ghi bằng loại chữ viết khác nhau để ghi lại tiếng Mường. Đây là khó khăn vất vả lớn một lần nữa đặt ra yếu tố chữ Mường .Năm năm nay, dưới sự chỉ huy trực tiếp của chiến sỹ Bí thư Tỉnh ủy Bùi Văn Tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Khoa học và Công nghệ cùng những sở, ngành tương quan vào cuộc, mời những nhà khoa học ở Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Nước Ta trực tiếp về Hòa Bình thực thi đề tài khoa học công nghệ tiên tiến cấp tỉnh ” Xây dựng Bộ gõ chữ Mường, Biên soạn tài liệu dạy – học chữ Mường ” do Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khang, nhà khoa học uy tín của Nước Ta làm chủ nhiệm đề tài. Đích thân chiến sỹ Bí thư Tỉnh ủy tham gia trong nhóm làm đề tài .Việc triển khai rất nguy hiểm, nhóm làm đề tài đã đi khảo sát tại hơn 20 xã có đông người Mường sinh sống trong tỉnh thuộc những huyện : Tân Lạc, Lạc Sơn, Cao Phong, Kim Bôi … Đã gặp gỡ hơn 100 người trực tiếp phỏng vấn, ghi chép tư liệu và thực thi phát phiếu tìm hiểu xã hội học. Tại những huyện đều tổ chức triển khai tọa đàm, hội thảo chiến lược nhỏ quy mô hơn 20 người là những nhân sĩ, tri thức, người có hiểu biết tham gia. Mỗi cuộc hội thảo chiến lược, tọa đàm đều tranh luận, có lúc nóng bức ” nảy lửa ”, tổng thể đều thành tâm nhằm mục đích tìm đến chân lý cho sự sinh ra của bộ chữ Mường. Đề tài đã triển khai 5 lớp dạy chữ Mường thể nghiệm ở những huyện : Lạc Sơn, Tân Lạc và thành phố Hòa Bình cho những đối tượng người tiêu dùng là học viên, nông dân, cán bộ, công chức … đạt tác dụng tốt. Qua đó nhóm thực thi đề tài có thêm cơ sở trong thực tiễn để liên tục triển khai xong Bộ chữ viết dân tộc Mường .Sau 2 năm ( năm nay – 2017 ) triển khai đề tài, những loại sản phẩm khoa học : ” Tài liệu hướng dẫn dạy lời nói, chữ viết dân tộc Mường ”, ” Tài liệu tiếng Mường cơ sở ”, ” Tài liệu đọc, hiểu tiếng Mường ” thuộc đề tài Xây dựng Bộ gõ chữ Mường, Biên soạn tài liệu dạy – học chữ Mường đã sinh ra, được Hội đồng khoa học nghiệm thu sát hoạch, đạt loại xuất sắc. Ngày 8/9/2016, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Hòa Bình đã công bố Quyết định số 2295 / QĐ-UBND về việc phê chuẩn bộ chữ dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình. UBND tỉnh Hòa Bình phát hành Kế hoạch số 118 / KH-UBND về tiến hành ứng dụng Bộ chữ dân tộc Mường tại tỉnh Hòa Bình. Với mục tiêu đưa Bộ chữ dân tộc Mường được phê chuẩn vào đời sống dân tộc Mường ; đồng thời nhằm mục đích chứng minh và khẳng định Bộ chữ dân tộc Mường là chữ viết chính thức của dân tộc Mường ; qua đó, góp thêm phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Mường. [ 6 ]Ngoài ra, còn có sáng tạo độc đáo dùng chữ Nôm để ghi tiếng Mường vừa sinh ra vào giữa năm 2020. Xem tại Chữ Nôm Mường .

Bộ chữ viết Mường[sửa|sửa mã nguồn]

Từ trước đến nay có nhiều nhà văn hóa nghiên cứu và điều tra chuyên và không chuyên đã dùng chữ Quốc ngữ để phiên âm ghi chép lại những di sản văn hóa truyền thống này. Mỗi người ghi một cách khác nhau, không có sự như nhau. Ghi như vậy cũng không hề lột tả hết thực chất, cái hay, cái đẹp của Mo Mường hay những áng thơ văn Mường cổ .Với xu thế lúc bấy giờ, lời nói cũng đang bị ảnh hưởng tác động rất nhiều bởi tác động ảnh hưởng của bên ngoài, vì vậy lời nói của người Mường đang rơi rụng. Chỉ khoảng chừng vài chục năm nữa, nếu không ghi lại lời nói của người Mường bằng chữ Mường thì chắc như đinh không hề giữ được bản thể tiếng Mường của người Mường. Bộ chữ Mường sinh ra thật sự rất thiết yếu để ghi lại những giá trị văn hóa truyền thống và bảo tồn lời nói người Mường .

Đây là Bộ chữ dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình, được UBND tỉnh Hòa Bình phê duyệt tại Quyết định số 2295/QĐ-UBND ngày 08 tháng 9 năm 2016 [7]. Bảng chữ cái này phục vụ việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh.

Bộ chữ dân tộc Mường này có 28 chữ cái. Báo Hòa Bình điện tử bản tiếng Mường đã sử dụng bộ chữ này.

Bộ chữ tiếng Mường tỉnh Hòa Bình[7]
STTChữ hoaChữ
thường
Tên chữÂm
chữ
1Aaaa
2Ăăáá
3Ââ
4Bbbờ
5Cckờ
6Đđđêđờ
7Eeee
8Êêêê
9Ffépphờ
10Gggờ
11Hhháthờ
12Iiii
13Kkkakờ
14Lle-lờlờ
15Mme-mờmờ
16Nne-nờnờ
17Oooo
18Ôôôô
19Ơơơơ
20Pppờ
21Rre-rờrờ
22TTtờ
23Uuuu
24Ưưưư
25VV
26Wwvê képwờ
27XXích-xìxờ
28Zzzétzờ

Ghi chú:

– Để ghi các biến thể của tiếng Mường cũng như các từ ngữ tiếng Việt, tiếng Anh, v.v, tiếng Mường có thể sử dụng các con chữ khác như: j, q, s, y. Tuy nhiên, các con chữ này không thuộc bảng chữ cái tiếng Mường. Trường hợp này giống như tiếng Việt vẫn sử dụng f, j w, z để ghi, nhưng chúng không thuộc bảng chữ cái tiếng Việt.

Phụ âm đầu[sửa|sửa mã nguồn]

Tiếng Mường có 24 phụ âm đầu, được ghi như sau :

TTÂm vịChữ viếtVí dụ
* Chữ in nghiêng là chữ Mường ;* Chữ để trong ( ) là nghĩa tiếng Việt
1ɓb (mó nước), bang (con hoẵng), bấw (bấm)
2t͡ɕchcha (vườn), chỉl (sợi chỉ), chôống (chống)
3ɗđđo (no), đác (nước), đắng (nắng)
4fffew (một loại tre), fui (vui), (phá)
5ɣggả (gả), gế (ghế), gwắnh (bện)
6hhha (chúng ta, ta), háw (thích, muốn)
7hrhrhroóch (ruột), hrê (chuột), hréch (rễ)
8kkka (gà), kel (cổ), koóch (gót chân)
9khkha (vợt bắt cá), khaw (ngôi sao), khwác (khoác)
10klklklời (trời), klang (ném), klớng (trứng)
11lIlom (gan), (làm), lêênh (lên)
12mmmâl (mây), moóng (móng), (mè)
13nnnu (củ nâu), náng (nướng), (nỏ)
14ŋngngoóc (ngẩng), ngỉ (nghỉ), ngón (ngón)
15ɲnhNhuúc (thịt), nhá (nhai), nhà (nhà)
16pppa (ba), pú (vú), păl (bay)
17sx (gió), xôốc (xúc), xép (lép)
18rr (điên), ráng (đỏ), roóch (rót)
19ttta (da), tắi (ngủ), tẻ (đẻ)
20ththăi (tay), thốl (tối), thôốch (tốt)
21tltltlôốc (đầu), tlắng (trắng), tlu (trâu)
22vvvêl (về), vắn (vắt lên), va (và cơm)
23wwwoi (voi), wắl (váy)
24zzza (mày), zoóng (nhón gót), zu (dâu)

Ghi chú:

+ Các tổ hợp phụ âm được ghi bằng tổ hợp 2 chữ cái: kl, tl, hr

+ Các phụ âm đơn được ghi bằng tổ hợp 2 chữ cái: ch, nh, ng, kh, ph, th

– Vì âm đầu của các biến thể từ vựng ở các địa phương có thể không giống nhau nên việc sử dụng ký hiệu chữ viết nào là tùy thuộc vào từng địa phương cụ thể. Chẳng hạn, để ghi các từ có nghĩa là “đầu, trắng, trâu” ở vùng Mường Bi phải sử dụng ký hiệu âm đầu là tl (tlôốc, tlắng, tlu) nhưng vùng Mường Khến thì sử dụng ký hiệu âm đầu là kl (klôốc, klắng, klu). Nhìn chung, giữa các địa phương trong tỉnh Hòa Bình thường có các biến thể ở các cặp âm đầu: b-p, đ-t, g-k, v-w, kl-tl, hr-r

– Trường hợp kc: k dùng để ghi phụ âm đầu, c dùng để ghi phụ âm cuối.

Tiếng Mường có 01 âm đệm là /w/ được ghi bằng con chữ w.

Ví dụ: kwêl. khwắn (thuốc hút), khwắi (khoáy); kwa (chúng tôi), kwải (vãi, ném), kwang (sạch).

* Ghi chú:

So sánh với tiếng Việt: tiếng Việt có một âm đệm /w/ được ghi bằng hai con chữ ou. Ví dụ: hoa quả.

Tiếng Mường có 14 nguyên âm, gồm 11 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi, được ghi như sau :

TTÂm vịChữ viếtVí dụ
1aa

trước 2 âm cuối: -ch, -nh

taanh (đan), paánh (bán), kaách (cát), laạch (lạt)
2a
những trường hợp còn lại
káng (cằm), nàw (cào), mal (rắn cạp nong)
ăătắng (đắng), tắnh (đánh), tăw (đau)
3əâchấy (giấy), kâl (gỗ), mâl (mây)
4ɛetẻ (đẻ), enh (anh), pén (bán)
5eêê
trước 4 âm cuối :

-nh, -ch, -ng, -c

khêênh (gần), têếnh (đến), têếch (đứt), mêếch (mật), chêêng (rau dền), tlêêng(trên), êếc (ếch)
ê
những trường hợp còn lại
-tê (dê), pền (bền), đếp (nếp)
6iiti (đi), píl (quả bí), chỉl (chỉ)
7ͻoo

trước 4 âm cuối: -nh, -ch, -ng, -c

nhoọnh (nhọn), poóch (vót), oóng (uông), toọc (săn, đuổi)
o
những trường hợp còn lại
non (trẻ), chól (gà sống), bói (muối)
8oôô

Trước 4 âm cuối: -nh, -ch, -ng, -c

thôốch (tốt, đẹp), hôốc (gọi, kêu), tlôống(trống), tlôốc (đầu)
ô
những trường hợp còn lại
thốl (tối), thôm (tôm), tlốn (trốn), đôi (sâu bọ)
9ɤơtlớng (trứng), tở (để cho), kởi (gửi)
10uuu

trước 4 âm cuối: -nh, -ch, -ng, -c

huunh (hôn), buúch (mút), thuúnh (rốn), uúch (út) khuung kướng (sung sướng), puúng (búng), kuúc (cúc)
u
những trường hợp còn lại
pul (vun), pùn (bùn), núm (vắt xôi), kùm(chuồng lợn)
11ɯưư

trước 4 âm cuối: -ng, – ch, -ng, -c

chưừng (vách núi), khưừng (sừng), khưức (sức)
ư
những trường hợp còn lại
khứl (lợi chân răng), từ (nhiều)
12tiể (đỉa), iếng (nghe), ká chiếc (cá giếc)
13ɯɤươlươnh (lươn), mườl (mười), khướng (sân, dưới sàn)
14puốch (vuốt), ká chuốl (cá quả), kuốn(cuốn)

*Ghi chú:

Những trường hợp viết bằng hai con chữ ở đây là để tránh sự ảnh hưởng từ cách phát âm của tiếng Việt: a/aa, ê/êê, o/oo, ô/ôô, u/uu, ư/ưư

Hệ thống âm cuối tiếng Mường gồm 9 phụ âm : / p, t, c, k, m, n, ɲ, ŋ, l / và 2 bán nguyên âm : / w, j / ; được ghi như sau :

TTÂm vịChữ viếtVí dụ
1ppđếp (nếp), póp (bóp), tắp (đắp đất)
2ttchit (chết), tất (đất), tốt (đốt ngón tay)
4kctlôốc (đầu), đác (nước), pạc (bạc)
3chmôộch (một), choóch (vịt con), pớch (bớt)
5mmlom (lá gan), thim (người yêu),păm (băm)
6nnđón (nón), tìn (dưới), pàn (bàn)
7ɲnhmoónh (muốn), thuúnh (rốn), maanh (mượn)
8ŋngmoong (muông thú), tlêng (trên), poỏng (bỏng)
9llmọl (người), păl (bay), kấl (cấy)
10wwkhaw (sao), kâw (câu), taw (dao)
11jiđoi (nhỏ bé), kúi (lợn), ngăi (ai)

Tiếng Mường có 5 thanh điệu ; được ghi như sau :

ThanhĐộ cao và tuyến điệuKí hiệuVí dụ
Thanh 133[˧]ala33la
Thanh 242[˨˩]àklaŋ42klàng
Thanh 3324[˧˩˧]ʔieŋ324iểng
Thanh 434[˧˥]árak34rák
Thanh 5342ʔ[˨˧]

sa342ʔxạ

Ghi chú:

Các biến thể phát âm về thanh điệu ở những vùng miền hoàn toàn có thể có khác nhau nhưng đều được quy về 5 thanh và ghi kí hiệu như trên. Ví dụ : Thanh 2 trong tiếng Mường ở những vùng hoàn toàn có thể có cách phát âm khác nhau ( ví dụ điển hình như thanh huyền tiếng Việt ), nhưng đều thống nhất ghi bằng :

Hiện tượng này cũng thường gặp trong tiếng Việt, ví dụ: cách phát âm của người Sơn Tây về thanh huyền; cách phát âm của người khu bốn về thanh sắc (chủng tôi= chúng tôi), cách phát âm thanh hỏi như thanh ngã ở một số địa phương (bị ngả= bị ngã). Tuy nhiên về chính tả chung của tiếng Việt vẫn thống nhất.

Tiếng Mường có 152 vần, đơn cử như sau :

STT1.2.3.4.5.6.7.8.9.10.11.12.
occhlmnngnhptiw
1.aaacaachalamanangaanhapataiaw
2.ăăcăchălămănăngănhăpătăiăw
3.ââcâlâmânângâpâtâiâw
4.eeecelemenengepetew
5.êêêcêêchêlêmênêngêênhêpêtêw
6.iiicichilimininginhipitiw
7.oooocoocholomonoongoonhopotoi
8.ôôôôcôôchôIômônôôngôônhôpôtôi
9.ơơơcơchơlơmơnơngơnhơpơtơiơw
10.uuuucuuchulumunuunguunhuputui
11.ưưưưcưưchưlưmưnưưngưưnhưpưtưiưw
12.iêciêliêmiêniêngiêpiêtiêw
13.uôcuôchuôluômuônuônguônhuôpuôtuôi
14.ươươươcươchươlươmươnươngươnhươpươtươiươw
121411141414141114141010

Một số ví dụ[sửa|sửa mã nguồn]

Tiếng MườngDịch nghĩa
“Tlăm thử hương ó chi bằng hương con mại
Tlăm thử tlải ó chi bằng tlải bôông cơm [ 8 ]
Trăm thứ hương không hương nào bằng hương con gái
Trăm thứ trái không gì bằng trái bông cơm ( lúa gạo ) [ 8 ]
Người đưa câl thanh loong wềl xạ Đông Bắc

Ôông Bình chia sé: Tlước ni đà cỏ 1 hộ đưa câl thanh loong wềl tlôông nhưng chăng theènh côông. Gia đình tôi cỏ tôống diện tích tlêênh 3.000 m2. Tlước ni cẩl lọ, tlôông mỉa, khậw, thu nhập bấp bêênh, ó ốn định. Năm 2015, iểng tlêênh các phương tiện thôông tin đại chủng nỏi cỏ mô hình tlôông quả thanh loong kết hợp cùng du lịch hiệu quá ớ Xuổi Xói, huyện Lạc Thúy cuố eenh Chần Hưng, mọl Hà Nội đêểnh đẩu tư. Tôi đêểnh tận được đớ học tập, mua giôổng. Mởi đầu, tôi đưa bao tlôông thứ nghiệm 2.000m2 thanh loong cá 2 zôổng roọch đó và roọch tlẳng. Thẩy thanh loong phát chiến tốt, năm 2016 tôi tiếp tục tlôông thêm hơn 1.000m2 pợi 420 côốc.[9]

Người đưa cây thanh long về xã Đông Bắc
Ông Bình san sẻ : Trước đây đã có 1 hộ đưa cây thanh long về trồng nhưng không thành công xuất sắc. Gia đình tôi có tổng diện tích quy hoạnh trên 3.000 mét vuông. Trước kia cấy lúa, trồng mía, ngô, thu nhập bấp bênh, không không thay đổi. Năm năm ngoái, khi nghe trên những phương tiện thông tin đại chúng nói về quy mô trồng hoa, thanh long phối hợp với du lịch hiệu suất cao ở Suối Sỏi, huyện Lạc Thủy của anh Trần Hưng, người TP.HN đến góp vốn đầu tư. Tôi đã về tận nơi để học tập, mua giống. Mới đầu, tôi đưa vào trồng thử nghiệm 2000 mét vuông thanh long cả ruột đỏ và ruột trắng. Thấy cây thanh long tăng trưởng tốt, năm năm nay, tôi liên tục trồng thêm hơn 1.000 mét vuông với 420 gốc. [ 10 ]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]