Tiếng Chơ Ro – Wikipedia tiếng Việt

Tiếng Chơ Ro (còn gọi là Chrau, Jro, Ro, Tà Mun, Charuo, Choro, Chíoro) là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Bahnar được nói bởi 22.000 người Chơ Ro ở miền nam Việt Nam. Không giống như hầu hết các ngôn ngữ tại Đông Nam Á khác, tiếng Chơ Ro không có thanh điệu từ ngữ, mặc dù nó có ngữ điệu câu rõ rệt.[2]

Có khoảng chừng dưới 20.000 người là người Chơ Ro bản ngữ [ 3 ]. Người nói tiếng Chơ Ro đa phần sống ở những tỉnh miền Nam như Đồng Nai và Bình Thuận. Hầu hết những nghiên cứu và điều tra này là do David Thomas triển khai .Ngôn ngữ của người Chơ Ro chịu nhiều ảnh hưởng tác động từ tiếng Trung Quốc, điều này tương tự như như nhiều ngôn từ khác. Trong những năm sau khi người Chơ Ro khởi đầu kinh doanh huê lợi cho những dân tộc khác trong khu vực, tác động ảnh hưởng của tiếng Việt mở màn Open trong ngôn từ của họ. Tương tự như tiếng Trung và tiếng Việt, tiếng Chơ Ro cũng có 1 số ít thanh điệu nhất định được nhấn mạnh vấn đề khi nói .

Tiếng Chơ Ro thuộc nhóm ngôn ngữ Bahnar Nam cùng với tiếng Cơ Ho, tiếng Xtiêng, tiếng M’nông. Nhiều người xem tiếng Cơ Ho và tiếng Chơ Ro là xếp chung một nhóm nhỏ độc lập, tuy nhiên giữa hai ngôn ngữ lại có những khác biệt rõ rệt. Sự phân biệt các từ vựng cơ bản trong kho từ vựng các tiếng Chơ Ro, tiếng Cơ Ho, tiếng Mnông và tiếng Xtiêng là khoảng 60% từ cùng gốc.

Người Chơ Ro, có lẽ rằng, là người bản xứ tại khu vực họ đang sinh sống, mặc dầu nhiều học giả cho rằng đã có thổ dân Negrito cư trú tại đây trước khi người Môn-Khmer di cư đến .Trước khi người Việt sinh sống ở đây, vùng này có sự phân loại giữa những người nói ngôn từ Chăm ( thuộc ngữ tộc Malay-Đa Đảo ) và người nói ngôn từ Môn-Khmer. Nhóm người Chăm định cư dọc theo bờ biển ( từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận ) và khoảng chừng giữa cao nguyên ( Gia Lai, Đắk Lắk ) còn người Môn-Khmer thì sống ở phía Bắc và Nam của cao nguyên. Mặc dù có một khoảng cách trong lịch sử vẻ vang giữa hai khu vực này, nhiều người hoài nghi rằng hoàn toàn có thể đã có một cuộc xâm lược của người Môn-Khmer đến nhóm người Chăm. Vì vậy, ngôn từ Môn-Khmer ở đây trở nên phổ cập hơn. Điều này cũng đã châm ngòi cho những câu truyện khác nhau bởi những nhóm giả thiết khác nhau về cách người Chơ Ro Open đến khi người Campuchia gốc Chăm được hình thành .Cũng có những cuộc cuộc chiến tranh xảy ra bắt buộc người Chrau phải di cư, tộc Jro là một trong những tộc lớn nhất của người Chrau, đó là nguyên do tại sao ngôn từ này nhiều lúc được gọi là Jro. Khi người Việt mở màn định cư trong khu vực, tiếng Chơ Ro dần bị tác động ảnh hưởng lớn bởi tiếng Việt, và nó trở thành một ngôn từ có nguy cơ biến mất .Tiếng Chơ Ro là ngôn từ được nói riêng với những người biết ngôn từ này. Trong những trường hợp khác, tiếng Việt là ngôn từ thường được sử dụng thoáng rộng và không nhiều thế hệ trẻ sẽ biết tiếng Chơ Ro .
Tiếng Chơ Ro hiện tại được nói trong một khu vực cách 50 dặm về phía đông của Thành phố Hồ Chí Minh. Người Chơ Ro sống ở khu vực mà ranh giới phía bắc trải dài từ sông La Ngà và phía đông đến huyện Tánh Linh, tuyến đường Tánh Linh-Hàm Tân phân loại thành phía tây của người Chơ Ro và phía đông của người Raglai. Về phía nam, tiếng Chơ Ro hiện hữu đến vùng ven biển từ Hàm Tân đến Vũng Tàu, Long Thành và Trảng Bom và về phía tây không quá xa sông Đồng Nai. Cũng có ghi nhận có một vài làng sống xa về phía tây ở Tây Ninh, nơi họ dược gọi là người Tà Mun. Mặc dù không có địa phương nào xem tiếng Chơ Ro là ngôn từ chính thức, nhưng nhiều khu vực của Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai vẫn có nhiều người nói tiếng Chơ Ro. Mặc dù tiếng Việt là ngôn từ chính trong toàn bộ những nghành .

Nhiều người nói tiếng Chơ Ro có xu hướng sống ở các khu vực giữa vùng đất bằng phẳng gần đồng bằng nhưng cũng gần các khu vực miền núi. Tuy nhiên, dường như đã có sự dịch chuyển trong những năm gần đây đến khu vực quốc lộ vì sự thay đổi thời tiết gây khó khăn cho việc đi lại của người Chơ Ro cũng như sự ổn định tài chính.

Các phương ngữ[sửa|sửa mã nguồn]

Phương ngữ Jro được nói bởi phần đông những người biết tiếng Chơ Ro vì Jro là nhóm đông dân nhất của Chơ Ro .

Phụ âm
phthchhkhptchl,r
ckqvdjgy
bđmnnhngws

Phương ngữ này có phân loại âm ” n ” với ” h ” cũng như nói ” ư ” là sự trung hòa cơ bản của ” ĭ ” và ” ŭ ” trong 1 số ít thiên nhiên và môi trường nhất định. Trong khi ” ĕ / ă ” và ” â / ŏ ” thì trung hòa trong những môi trường tự nhiên khác. Cho phép những âm tiết mở chỉ nhận những nguyên âm dài .
Phương ngữ này được nói như khu vực Túc Trưng, tuy nhiên nhiều người coi phương ngữ này giống như trẻ con và là một sự hiểu lẫn nhau trong toàn cảnh. Mặc dù đây không phải là phương ngữ phổ cập nhất, nhưng có một vài ghi chép trong phương ngữ này .

Tiếng ViệtPhương ngữ JroPhương ngữ Prâng
rừngnggôvri
đisaqhăn
tôiănhĭnh
chơilêngkhlân
nhỏkenvây

Mặc dù có vẻ như không có nhiều mối đối sánh tương quan, nhưng đó là do thiên nhiên và môi trường mà người Chơ Ro đang ở, nơi họ thấy mình đang cố gắng nỗ lực trộn lẫn hai tác động ảnh hưởng của tiếng Trung cũng như tiếng Việt vì phương ngữ Prâng hiện hữu về phía tây của Nước Ta nơi giáp với Lào và Campuchia .

Tiếng AnhTiếng ViệtTiếng Cho Ro
seexemsên
diechếtchưt
housenhànhi
squeezebópbop
greenxanhsănh

Cùng với những tác động ảnh hưởng từ tổng thể những hạ tầng như chợ và đường đang được kiến thiết xây dựng, mặc dầu nhiều từ của người Cho Ro có nguồn gốc của riêng họ, khi ảnh hưởng tác động của tiếng Việt và tiếng Trung khởi đầu xâm lấn, những từ của họ biến thành một thứ tích hợp của tổng thể những ngôn từ. Tuy nhiên, chỉ có người Chơ Ro có vẻ như đã hiểu ngôn từ đã hình thành. Cũng cần quan tâm rằng không phải toàn bộ mà chỉ một số ít ít những từ của họ đã bị ảnh hưởng tác động bởi tiếng Việt .

Câu vănDịch nghĩa đenDịch đúng
Anh văt nĕh haoTôi nâng nó lênTôi nâng nó lên
Vơn một nĕhChúng tôi đã cho anh ấyChúng tôi đã đưa nó cho anh ta
Vơn păh nĕh iưm glao măq lŭngChúng tôi chặt cho anh tre rất to.Chúng tôi chặt tre lớn cho anh.

Hệ thống chữ viết này có xu hướng trang trọng hơn vì đây không phải là văn hóa truyền thống hay cuộc trò chuyện thân mật. Có một phong cách thông tục được sử dụng trong cuộc trò chuyện thông thường được đánh dấu bằng các câu ngắn và lược văn xuất hiện thường xuyên.

Hệ thống số đếm[sửa|sửa mã nguồn]

SốPhát âmSốPhát âmSốPhát âmSốPhát âm
1muoːi / du11maːt muoːi21val ɟaːt muoːi40puoːn ɟaːt
2val12maːt val22val ɟaːt val50prăm ɟaːt
3pe13maːt pe23val ɟaːt pe60prau ɟaːt
4puoːn14maːt puoːn24val ɟaːt puoːn70pŏh ɟaːt
5prăm15maːt prăm25val ɟaːt prăm80pʰam ɟaːt
6prau16maːt prau26val ɟaːt prau90suˀn ɟaːt
7pŏh / paːh17maːt pŏh27val ɟaːt pŏh100du rajĕŋ
8pʰam18maːt pʰam28val ɟaːt pʰam200val rajĕŋ
9suˀn19maːt suˀn29val ɟaːt suˀn1000du ravu < Chamic
10maːt20val ɟaːt30pe ɟaːt2000val ravu

Hệ thống số đếm là một ví dụ về sự độc lạ trong ngôn từ Chơ Ro so với những ngôn từ khác, mặc dầu có một chút ít tác động ảnh hưởng của nhóm ngôn từ Chăm, Môn-Khmer cũng như những ngôn từ khác. Nó vẫn là mạng lưới hệ thống đánh số duy nhất và có những cái riêng của nó .

  • Cheeseman, Nathaniel; Herington, Jennifer; Sidwell, Paul (2013). ”Bahnaric linguistic bibliography with selected annotations. Mon-Khmer Studies vol. 42 Mahidol University and SIL International.
  • Một, L. (1971). Vơn Gưt Sinlơ Sŭng Vri Heq. Truy cập from https://www.sil.org/resources/archives/30760
  • Parkin, R. (1991). A Guide for Austroasiatic Speakers and Their Languages. Oceanic Linguistics Special Publications, 23, 1-139. Truy cập from https://www.jstor.org/stable/pdf/20006738.pdf
  • Thomas, D. (1966). Chrau Intonation. The Mon-Khmer Studies, 2, 1-13. Truy cập from https://www.sil.org/resources/publications/entry/8155
  • Thomas, D. D. (1967). Chrau grammar; a Mon–Khmer language of Vietnam.
  • Thomas, D. (1969). Chrau Affixes. The Mon-Khmer Studies Journal, 3, 90-107. Truy cập from https://www.sil.org/resources/publications/entry/8329
  • Thomas, D. (1971). Chrau Grammar. Oceanic Linguistics Special Publications, (7), I-258. Truy cập from https://www.jstor.org/stable/20019129
  • Thomas, D. (1978). The Discourse Level Chrau. The Mon-Khmer Studies Journal, 7, 233-295. Truy cập from https://www.sil.org/resources/publications/entry/8158
  • Thomas, D. (1980). Notes on Chrau Ethnogeography. SIL Museum of Anthropology, 6, 215-254. Truy cập from https://www.sil.org/resources/publications/entry/7950
  • Thomas, D. (1983). Reality and Assurance in Chrau Conditional Sentences. Truy cập from https://www.sil.org/resources/archives/3669
  • Zwicky, A. (1985). Clitics and Particles. Language, 61(2), 283-305. Truy cập from https://www.jstor.org/stable/pdf/414146.pdf

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]