Bình Phước: Sau 13 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Nhận thức của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn có chuyển biến tích cực. Kinh tế nông nghiệp có bước phát triển khá, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đã hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh. Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, thu nhập bình quân đầu người tăng cao. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao được nâng cao mức hưởng thụ về văn hóa cho Nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở nông thôn phát triển khá, từng bước đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống. Hệ thống chính trị ở nông thôn hoạt động ngày càng hiệu quả, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn được giữ vững.
Thực chất quy đổi số trong nghành nghề dịch vụ nông nghiệp là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học vào sản xuất, quản trị và chế biến, tiêu thụ nông sản ( ảnh chụp tháng 3-2021 )
Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại
Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch rõ nét, nâng cao về sản lượng và chất lượng sản phẩm; sản xuất nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế và đóng góp lớn cho thu ngân sách toàn tỉnh; giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp giai đoạn 2008-2020 tăng bình quân hàng năm 6,95%.
Bạn đang đọc: Bình Phước: Sau 13 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Phó Bí thư Tỉnh ủy – Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Trần Tuệ Hiền (ngoài cùng bên phải) thăm quan mô hình trồng rau công nghệ cao của Hợp tác xã Nguyên Khang Garden tại huyện Phú Riềng
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp trung bình quá trình 2008 – 2010 là 8,06 %. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp trung bình quá trình 2011 – 2020 là 5,61 %. Chuyển dịch cơ cấu tổ chức nông nghiệp và kinh tế tài chính nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Phát triển sản xuất song song với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ phát triển nông nghiệp vững chắc. Tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được đẩy nhanh ; ngành trồng trọt phát triển theo hướng thâm canh, chuyên canh ; có sự vận động và di chuyển từ sản xuất nông hộ nhỏ, lẻ sang hướng link sản xuất quy mô lớn, đã từng bước đầu tư, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao .
Năm 2020, đàn heo phát triển nhanh với 848.357 con, tăng 690.270 con so năm 2008 ; tổng đàn gia cầm 7.357.000 con, tăng 5.885.590 con so năm 2008 ; tổng đàn trâu, bò 50.929 con, giảm 40.301 con so năm 2008 do diện tích quy hoạnh đồng cỏ giảm làm nguồn thức ăn ít đi. Chăn nuôi heo, gà quy mô công nghiệp, bán công nghiệp chiếm trên 70 %, nhiều trại chăn nuôi quy mô lớn, công nghệ tiên tiến văn minh ; những doanh nghiệp và cơ sở chế biến ngày càng được góp vốn đầu tư trang thiết bị nhằm mục đích nâng cao hiệu suất, hạ giá tiền, ngân sách chế biến mẫu sản phẩm. Kinh tế tập thể ngày càng phát triển, khẳng định chắc chắn vai trò là thành phần kinh tế tài chính không hề thiếu trong sự phát triển kinh tế tài chính của quốc gia và của tỉnh .
Chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn phải bắt đầu từ người nông dân
Trên địa bàn tỉnh có 01 trại giống thủy sản nước ngọt cấp I, hàng năm cung cấp 10 triệu con giống (5 tấn), đáp ứng 20% nhu cầu giống của địa phương. Các hồ chứa nước thuỷ lợi đều phát huy tối đa mục tiêu. Năm 2020, tổng diện tích nuôi trồng đạt 1.569 ha, giảm 29,6% so năm 2008; tổng sản lượng thủy sản đạt 4.678 tấn, giảm 29,7% so năm 2008.
Nông dân được cao đời sống vật chất tinh thần
Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 69,27 triệu đồng, tăng 4,75 lần so năm 2008. Xóa đói giảm nghèo đạt kết quả khá, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 6,11% năm 2008 (theo chuẩn cũ) còn 1,34% năm 2020 (theo chuẩn mới tiếp cận
đa chiều), đạt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60%; bưu chính viễn thông đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đời sống Nhân dân; tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh năm 2020 đạt 98 %, tăng 25% so năm 2008.
Đến nay, 100% số xã trên địa bàn tỉnh đã có điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ dân có sử dụng điện đạt 99%. Hệ thống lưới điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo cung ứng điện năng phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, chất lượng điện phục vụ cho sinh hoạt của dân cư nông thôn, các xã vùng sâu, vùng xa; có 98% số xã có điểm phục vụ bưu chính viễn thông, 100% xã có đài truyền thanh, có internet đến tận thôn, ấp; có 58 chợ truyền thống với 07 chợ xã biên giới, 29 chợ xã đồng bào dân tộc thiểu số, 12 chợ xã và 10 chợ thành thị; đối với hình thức thương mại hiện đại: Có 05 siêu thị, 03 trung tâm thương mại và 60 cửa hàng tiện lợi, 32 nhà phân phối, 415 cửa hàng kinh doanh xăng dầu và hơn 6500 cửa hàng bán lẻ … phân bố phù hợp với mật độ dân cư và tiềm năng phát triển kinh tế của từng địa phương, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng, sản xuất kinh doanh của Nhân dân.
Nông thôn đã có bước phát triển mới
Hệ thống y tế dự phòng từ tỉnh đến huyện và mạng lưới y tế cấp xã được củng cố và phát triển, năng lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh đã được tăng cường. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 128 cơ sở khám chữa bệnh với 2.635 giường bệnh (số giường bệnh/vạn dân 28,5 giường; tỷ lệ bác sỹ/vạn dân 8,5); tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ đạt 95%; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 90%.
Nông dân Bình Phước chăm sóc mô hình trồng rau thủy canh ứng dụng công nghệ cao.
Có 111/111 xã, phường, thị trấn có trung tâm văn hóa – thể thao, hội trường cấp xã, trong đó, có 60/111 trung tâm văn hóa – thể thao đạt chuẩn theo quy định và có 851/851 thôn, ấp có nhà văn hóa, hội trường, trong đó, 384/851 nhà văn hóa đạt chuẩn theo quy định. Các nhà văn hóa được xây dựng ở vị trí trung tâm, tập trung dân cư, được trang bị cơ bản các thiết bị đảm bảo hoạt động. Cuối năm 2020, có 223.529 hộ gia đình được công nhận Gia đình văn hóa.
Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được quan tâm đầu tư: Các tuyến đường tỉnh đa phần đã được cứng hóa, 45% các tuyến đường huyện được cứng hóa và 24,3% các tuyến đường xã được cứng hóa; 100% số xã có đường nhựa, ô tô đến tận trung tâm xã; 64 xã đạt chuẩn tiêu chí số 2 theo quy định tiêu chí nông thôn mới; lưới điện quốc gia đã đến 100% trung tâm xã, phường, thị trấn. Công tác phổ cập giáo dục, xoá mù chữ được duy trì thường xuyên tại các địa phương; tính đến cuối tháng 5/2021, toàn tỉnh có 11/11 huyện/thị xã/thành phố và 111/111 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học được công nhận đạt chuẩn mức độ 3; duy trì 111/111 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở; 15/111 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập THPT
Thiết chế văn hoá ở nông thôn được tăng cường, ngày càng đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân, phát huy mạnh các giá trị truyền thống; đời sống vật chất và tinh thần người dân ở hầu hết các vùng nông thôn trong tỉnh từng bước được cải thiện; hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường; dân chủ cơ sở được phát huy; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Chương trình MTQGXDNTM gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị hóa nông thôn
Với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và người dân trong tỉnh, Chương trình MTQGXDNTM đạt nhiều kết quả khả quan, cụ thể: Đến tháng 6/2021, toàn tỉnh có 60/90 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 8 xã được công nhận đạt nông thôn
mới nâng cao; 02 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; 17 thôn, ấp được công nhận đạt chuẩn khu dân cư nông thôn kiểu mẫu. Số tiêu chí bình quân toàn tỉnh đạt 17,51 tiêu chí, không còn xã đạt dưới 10 tiêu chí.
Đánh giá việc thực thi 19 tiêu chuẩn trên địa phận 90 xã : 85/90 xã đạt
chuẩn hạ tầng về điện ; 88/90 xã đạt chuẩn hạ tầng y tế ; 90/90 xã đạt chuẩn hạ
tầng thuỷ lợi ; 90/90 xã đạt chuẩn hạ tầng thông tin và tiếp thị quảng cáo ; 87/90 xã đạt
chuẩn hạ tầng thương mại nông thôn ; 64/90 xã đạt chuẩn hạ tầng giao thông vận tải ;
61/90 xã đạt chuẩn hạ tầng trường học ; 73/90 xã đạt chuẩn cơ sở vật chất văn
hóa; 74/90 xã đạt chuẩn nhà ở dân cư; 74/90 xã đạt chuẩn thu nhập; 82/90 xã đạt
chuẩn hộ nghèo ; 89/90 xã đạt tỷ suất lao động có việc làm liên tục ; 84/90 xã
đạt chuẩn hình thức tổ chức triển khai sản xuất ; 88/90 xã đạt chuẩn văn hóa truyền thống ; 84/90 xã đạt
chuẩn thiên nhiên và môi trường và bảo đảm an toàn thực phẩm ; 89/90 xã đạt chuẩn mạng lưới hệ thống chính trị và
tiếp cận pháp luật; 90/90 xã đạt chuẩn an ninh quốc phòng.
Xem thêm: Người Sán Chay – Wikipedia tiếng Việt
Sau 11 năm triển khai xây dựng Chương trình MTQGXDNTM đã đạt một số kết quả quan trọng: Hạ tầng nông thôn vừa được đầu tư cho toàn bộ các xã (cơ chế đặc thù) vừa có trọng tâm (tập trung đầu tư đạt chuẩn cho xã về đích). Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và sự tham gia đóng góp của người dân, đến nay, đã làm được 3.103,78 km đường bê thông xi măng (Năm 2015: 111,23 km, năm 2016: 392,89 km, năm 2017: 493,39 km, năm 2018: 420 km và 42.488,4 m2 sân; năm 2019: 932,4 km và 19.600 m2 sân, năm 2020: 720km, dự kiến đến hết năm 2021 làm thêm 618 km). Từ năm 2017, cơ chế đặc thù đã mở rộng ra các hạng mục phòng học, nhà văn hóa, cầu – cống, vỉa hè, sân công cộng (sân trường, sân trụ sở, sân trạm y tế, sân nhà văn hóa), cổng, tường rào…Về huy động nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới: Tổng nguồn lực đầu tư cho Chương trình xây dựng nông thôn mới năm 2010-2020: 94.498.921 triệu đồng, trong đó, ngân sách Trung ương 793.075 triệu đồng, ngân sách địa phương 3.566.412 triệu đồng, vốn lồng ghép 2.820.817 triệu đồng; dư nợ tín dụng vùng nông thôn 86.314.600 triệu đồng, vốn doanh nghiệp 310.095 triệu đồng, huy động trong cộng đồng dân cư 693.922 triệu đồng.
Bài học kinh nghiệm sau 13 năm thực hiện Nghị quyết
Thứ nhất, Các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bám sát thực tiễn, phân công trách nhiệm rõ ràng của từng tập thể, cá nhân, đề cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, vận dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách của Nhà nước để phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng của đơn vị, địa phương. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các ngành, các cấp trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Định kỳ, tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách phù hợp, tạo tiền đề mang tính đột phá, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Nhiều vườn điều tại tỉnh Bình Phước cho năng suất cao, bán được giá
Thứ hai, Cần tập trung chỉ đạo công tác triển khai, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết một cách sâu rộng, có hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với mọi đối tượng, để người dân tự giác tham gia thực hiện các chương trình, dự án do mình thảo luận, lựa chọn.
Thứ ba, Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết, luôn xác định nông dân là trung tâm để phát huy vai trò làm chủ của nông dân trong việc tham gia thảo luận xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn.
Thứ tư, Việc cụ thể hoá, huy động các nguồn lực để tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải kịp thời nhất là ban hành các chính sách đặc thù địa phương để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp.
Thứ năm, Chỉ đạo xây dựng mô hình điểm nhằm đánh giá hiệu quả và cách thức thực hiện mô hình điểm để nhân rộng, tránh dàn trải, thiếu cơ sở thực tiễn.
Thứ sáu, Phải xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có năng lực tổ chức thực hiện, làm tốt công tác vận động và tập hợp Nhân dân tham gia xây dựng kế hoạch và thực hiện.
Source: https://laodongdongnai.vn
Category: Nông Thôn