Ngân hàng Nhà nước cam kết tiếp sức cho khu vực nông thôn | Tín dụng nông thôn | Vietnam+ (VietnamPlus)

Ngan hang Nha nuoc cam ket tiep suc cho khu vuc nong thon hinh anh 1Làm thủ tục cho hộ nghèo và đối tượng người dùng chủ trương vay vốn tại điểm thanh toán giao dịch xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. ( Ảnh : Trần Việt / TTXVN )Với tiềm năng kiến thiết xây dựng, tăng trưởng nông nghiệp, nông thôn mới văn minh, nhiều chủ trương tín dụng thanh toán đã được phát hành và nhanh gọn đi vào thực tiễn với tính hiệu lực hiện hành và hiệu suất cao cao, đặc biệt quan trọng trong toàn cảnh dịch COVID-19 .
Nhưng với những yếu tố rủi ro đáng tiếc đặc trưng, khu vực này vẫn đang gặp khó khăn vất vả trong tiếp cận vốn tín dụng thanh toán .

Trong vòng 10 năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp như ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ và Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn với nhiều điểm nổi bật như nâng gấp đôi mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với khách hàng cá nhân, hộ gia đình; bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu mối liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; hoàn thiện chính sách xử lý rủi ro đối với khách hàng gặp khó khăn do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng; bổ sung quy định về quản lý dòng tiền liên kết trong sản xuất nông nghiệp, góp phần hạn chế rủi ro tín dụng và khuyến khích tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay…

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành nhiều văn bản để hướng tín dụng thanh toán vào nghành nghề dịch vụ nông nghiệp, góp thêm phần thôi thúc sản xuất, vận động và di chuyển cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính theo hướng tích cực … giúp nghành nông nghiệp, nông thôn trở thành một trong những nghành nghề dịch vụ ưu tiên trong chủ trương tín dụng thanh toán lúc bấy giờ .
Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng những ngành kinh tế tài chính thuộc Ngân hàng Nhà nước, cho biết Ngân hàng Nhà nước đã có những chủ trương khuyến khích về mức cho vay không có gia tài bảo vệ, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, theo quy mô link, chuỗi giá trị, chính sách giải quyết và xử lý rủi ro đáng tiếc, cơ cấu tổ chức nợ giữ nguyên nhóm nợ, khoanh nợ .

[Mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp chăm lo đời sống nông dân]

Hệ thống ngân hàng nhà nước tăng nhanh tiến hành những chương trình tín dụng thanh toán đặc trưng và cho vay để tăng trưởng bền vững và kiên cố nông nghiệp, những mẫu sản phẩm nông sản nòng cốt như đóng tàu ship hàng đánh bắt cá món ăn hải sản xa bờ, giảm tổn thất trong nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tái canh càphê, hỗ trợ sản xuất, thu mua chế biến lúa gạo, thủy hải sản, rau quả … ; đồng thời có chủ trương trần lãi suất thời gian ngắn bằng VND vận dụng so với nghành nông nghiệp nông thôn thấp hơn nghành sản xuất kinh doanh thương mại thường thì. Mức lãi suất lúc bấy giờ là 4,5 % / năm .
Theo bà Phạm Thị Thanh Tùng, tính đến ngày 19/11 vừa mới qua, để tương hỗ người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn vất vả do tác động ảnh hưởng của dịch COVID-19, dư nợ tín dụng thanh toán toàn nền kinh tế tài chính đạt trên 10 triệu tỷ đồng, tăng 9,52 % so với cuối năm 2020 .
Tín dụng so với những nghành nghề dịch vụ ưu tiên có mức tăng trưởng tốt ; trong đó, dư nợ cho vay nghành nông nghiệp nông thôn đạt trên 2,5 triệu tỷ đồng với hơn 14 triệu người mua, chiếm trên 25,11 % tổng dư nợ tín dụng thanh toán nền kinh tế tài chính, tăng 10,21 % so với cuối năm 2020 và tăng 34,5 % so với thời gian trước khi phát hành Chỉ thị 12 / CT-TTg về chủ trương tín dụng thanh toán ship hàng tăng trưởng nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể, dư nợ cho vay trên địa phận nông thôn đạt 1,92 triệu tỷ đồng, chiếm 76,5 % tổng dư nợ nông nghiệp nông thôn. Toàn mạng lưới hệ thống có 78 tổ chức triển khai tín dụng thanh toán tham gia cho vay với dư nợ chiếm 19,6 % trong tổng dư nợ tín dụng thanh toán toàn nền kinh tế tài chính
Tuy đã đạt được những tác dụng tích cực, tuy nhiên việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng nhà nước của nông dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn vất vả, thử thách. Về phía những tổ chức triển khai cũng gặp không ít rủi ro đáng tiếc khi góp vốn đầu tư tín dụng thanh toán ở khu vực nông thôn do đặc trưng của nghành này .

Theo đánh giá của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, không chỉ đối với người nghèo mà các trang trại, hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn khó tiếp cận vốn vì không có tài sản thế chấp, chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi; vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính còn hạn chế.

Ngoài ra, việc tổ chức triển khai sản xuất theo những quy mô link vẫn thể hiện hạn chế do năng lực hợp tác, link của dân cư còn yếu ; số lượng quy mô chuỗi nông sản bảo đảm an toàn chưa nhiều ; hợp đồng link thiếu ngặt nghèo ; hiện tượng kỳ lạ vi phạm hợp đồng link của dân cư, doanh nghiệp đầu mối còn thông dụng, gây khó khăn vất vả cho những tổ chức triển khai tín dụng thanh toán trong việc trấn áp dòng tiền khi cho vay chuỗi .
Ngan hang Nha nuoc cam ket tiep suc cho khu vuc nong thon hinh anh 2Sản xuất cây giống ra tại hợp tác xã Tinh Hoa Farm ở phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột. ( Ảnh : Vũ Sinh / TTXVN )Đồng tình với những quan điểm trên, theo Phó Giáo sư-Tiến sỹ Tô Ngọc Hưng, Hiệu trưởng Đại học Hòa Bình, sản xuất nông nghiệp vẫn luôn là nghành nghề dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng tiếc nhưng những chính sách giải quyết và xử lý, phòng ngừa như bảo hiểm trong nông nghiệp chưa được tiến hành can đảm và mạnh mẽ nên đã ảnh hưởng tác động lớn đến năng lượng kinh tế tài chính và năng lực trả nợ ngân hàng nhà nước của người mua vay vốn khi gặp rủi ro đáng tiếc trong sản xuất, kinh doanh thương mại .
Do đó, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Tô Ngọc Hưng cho rằng thời hạn tới, để cải tổ dịch vụ tín dụng thanh toán cho nông nghiệp, nông thôn cần đặt tiềm năng ưu tiên tín dụng thanh toán cho nghành nghề dịch vụ này trong một khuôn khổ chủ trương toàn diện và tổng thể và dài hạn, thay vì đặc thù tương hỗ và bao cấp như trước kia .

“Can thiệp của Chính phủ không nhất thiết là phải cung cấp tín dụng với số lượng nhiều và giá rẻ mà có dưới nhiều hình thức khác. Ví dụ như cung cấp vốn, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, thực hiện các chương trình thí điểm rồi từ đó nhân rộng, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức cho vay lưu động ở vùng khó khăn… Những biện pháp can thiệp theo cách tiếp cận cũ như áp đặt lãi suất, hạn mức cho vay có tác động không tích cực đối với sự tăng trưởng của các tổ chức tín dụng và cản trở bước phát triển của thị trường tín dụng nông thôn,” Phó Giáo sư-Tiến sỹ Tô Ngọc Hưng nói.

Các chuyên viên kinh tế tài chính cũng cho rằng cần liên tục đơn giản hóa thủ tục vay vốn của người mua, đặc biệt quan trọng là doanh nghiệp tương thích với từng đối tượng người tiêu dùng người mua và loại sản phẩm nông nghiệp được góp vốn đầu tư tín dụng thanh toán ; tăng cường kiểm tra, giám sát so với những khoản cho vay nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ đúng mục tiêu, bảo đảm an toàn và hiệu suất cao .

Cùng với đó, các tổ chức tín dụng nên xây dựng và triển khai những sản phẩm tín dụng phù hợp với người nông dân và đặc thù sản xuất nông nghiệp; kịp thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, cung ứng các sản phẩm tiện ích ứng dụng công nghệ mới phù hợp với nhu cầu của người dân, doanh nghiệp tại khu vực nông thôn.

Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện nghiêm túc quy định về trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tiết giảm mọi chi phí hoạt động không cần thiết để dành nguồn lực giảm lãi suất vay; thực hiện cam kết đồng thuận giảm lãi suất cho vay lên tới 1%/năm trong các tháng cuối năm như kế hoạch đã đăng ký với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay, xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở quản lý dòng tiền; cải tiến quy trình, thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng./.

Thùy Dương (TTXVN/Vietnam+)