Cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của pháp luật hiện hành – FBLAW
Cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của pháp luật hiện hành
Dưới đây là tư vấn của Công ty luật FBLAW về Cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của pháp luật hiện hành. Mọi thắc mắc của quý vị xin hãy liên hệ ngay với FBLAW chúng tôi để được giải đáp sớm nhất nhé!
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, tuy nhiên Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) 2003 không quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đây là một bất cập đã được khắc phục trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Theo đó, BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải cam đoan; bổ sung thời hạn áp dụng đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
1. Khái niệm
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 điều 123 BLTTHS năm 2015
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng buộc bị can, bị cáo không được đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt theo giấy triệu tập.
2. Đối tượng áp dụng
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của BLTTHS năm 2015 là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Đây là giải pháp ngăn ngừa ít nghiêm khắc hơn giải pháp tạm giam. Người bị vận dụng giải pháp này không bị cách ly khỏi xã hội mà họ chỉ bị hạn chế quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi ở trong khoảng chừng thời hạn nhất định .
Do đó, đối tượng người dùng bị vận dụng giải pháp này thường là bị can, bị cáo :
- Phạm tội ít nghiêm trọng,
- Phạm tội lần đầu,
- Có nơi cư trú rõ ràng,
- Thái độ khai báo thành khẩn
- Và có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không bỏ trốn,
- Không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
3. Thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của BLTTHS năm 2015
Cơ sở pháp lý: Khoản 3 điều 123 BLTTHS năm 2015
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 những người sau đây có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú:
+ Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
+ Chánh án. Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án. Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp. Hội đồng xét xử.
+ Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
+ Đồn trưởng Đồn biên phòng
có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Ở đây cần quan tâm khi Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng Cơ quan tìm hiểu những cấp vận dụng giải pháp này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành .
4. Nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của BLTTHS năm 2015
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 điều 123 BLTTHS năm 2015
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 khi bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú thì bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ như:
+ Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép.
+ Có mặt theo giấy triệu tập trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan,
+ Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội,
+ Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
Không tiêu hủy, trá hình chứng cứ, tài liệu, vật phẩm của vụ án, tẩu tán gia tài tương quan đến vụ án ;
Không rình rập đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này .
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam
5. Thời hạn áp dụng biện cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của BLTTHS năm 2015
Cơ sở pháp lý: Khoản 4 điều 123 BLTTHS năm 2015
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, sau khi Cơ quan điều tra ra lệnh áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì lệnh này sẽ tồn tại suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nếu không được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Do đó có trường hợp có bị cáo sau khi xét xử hàng chục năm vẫn còn lệnh này vì Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 không pháp luật thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú cũng không pháp luật khi nào khi hết thời hạn vận dụng giải pháp này .
Theo pháp luật tại Khoản 4 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm ngoái thì “ Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn tìm hiểu, truy tố hoặc xét xử theo pháp luật của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú so với người bị phán quyết phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời gian người đó đi chấp hành án phạt tù ” .
Tức thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú tại quy trình tiến độ tìm hiểu do Cơ quan tìm hiểu quyết định hành động nhưng không được quá thời hạn tìm hiểu .
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú tại quá trình truy tố do Viện kiểm sát quyết định hành động nhưng không được quá thời hạn truy tố .
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú tại quá trình xét xử do Toà án quyết định nhưng không được quá thời hạn xét xử .
Nếu người bị phán quyết bị phạt tù thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú so với họ không được quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời gian người đó đi chấp hành án phạt tù .
6. Thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của BLTTHS năm 2015
Cơ sở pháp lý: Khoản 5 điều 123 BLTTHS năm 2015
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.
Trường hợp bị can, bị cáo vì nguyên do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải trong thời điểm tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự chấp thuận đồng ý của chính quyền sở tại xã, phường, thị xã nơi người đó cư trú hoặc đơn vị chức năng quân đội quản lý họ và phải có giấy được cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú .
Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ và trách nhiệm cam kết ràng buộc thì chính quyền sở tại xã, phường, thị xã nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị chức năng quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để giải quyết và xử lý theo thẩm quyền .
Kết luận
Theo quy định của điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 ở trên, ta thấy biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với mọi loại tội phạm. Người được áp dụng biện pháp này phải có có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, phải làm giấy cam đoan, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập.
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông tin về việc vận dụng giải pháp này cho chính quyền sở tại xã, phường, thị xã nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị chức năng quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền sở tại xã, phường, thị xã hoặc đơn vị chức năng quân đội đó để quản lý, theo dõi họ .
Trong trường hợp bị can, bị cáo có nguyên do chính đáng phải trong thời điểm tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý chấp thuận của chính quyền sở tại xã, phường, thị xã nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của người đã vận dụng giải pháp ngăn ngừa đó .
Đến ngày 01/01/2018, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm ngoái có hiệu lực thực thi hiện hành thi hành và pháp luật này được vận dụng. Tuy luật đã có lao lý khá rõ ràng nhưng theo chúng tôi cũng cần có sự hướng dẫn để thống nhất vận dụng :
- Vụ án đang ở gian đoạn nào thì do cơ quan tiến hành tố tụng ở giai đoạn đó quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
- Người ra quyết định và hủy bỏ quyết định của từng cơ quan tiến hành tố tụng.
- Riêng tại giai đoạn xét xử thì biện pháp này cần có sự phân biệt về thời điểm chuẩn bị xét xử và thời điểm xét xử vụ án.
Source: https://laodongdongnai.vn
Category: Người Lao Động