Nhạc Cụ Dân Tộc Thái – Việt Nam – NHẠC CỤ PHONG VÂN

Nhạc Cụ Dân Tộc Thái – Việt NamDanTinh2

Đến với bản người Thái trên vùng cao Tây Bắc, nơi nào có nhà sàn, có khăn piêu, áo cóm, áo chàm là ở đó có văn nghệ bản mường. Dù dưới ruộng hay trên nương, khi nào tâm hồn thảnh thơi là câu hát lại cất lên ngân nga, ngưng trệ .Hãy một lần ghé thăm nơi đây để được tận mắt ngắm nhìn nét độc lạ, ý nghĩa văn hóa truyền thống cũng như tình yêu, khát vọng mà đồng bào dân tộc người Thái gửi gắm vào điệu khèn Bè, tiếng Pí Pặp, đàn môi, tính tẩu …, cất lên gần như khá đầy đủ hương sắc âm nhạc dân gian Thái .Những nhạc cụ độc lạ của người Thái được làm ra từ trong lao động, để những âm thanh đó diễn đạt lên đời sống mộc mạc, chân phương của người dân bản mường. Cùng nhạc cụ Tiến Mạnh đi tìm hiểu và khám phá để thấy được nét đặc trưng văn hóa truyền thống trong nhạc cụ dân tộc của người Thái .

 

Khèn Bè

Tiếng khèn bè từ lâu đã trở nên quen thuộc so với mỗi người dân tộc Thái giữa núi rừng Tây Bắc. Giai điệu quyến rũ của những âm thanh sóng đôi đặc trưng của khèn bè cất lên nghe da diết sâu lắng như lời tâm tình yêu đương đã chắp cánh cho biết bao đôi lứa. Những làn điệu hát khắp đặc trưng của người Thái cũng được ngân nga hơn trong âm vang của tiếng khèn bè. Và từ lâu tiếng khèn bè đã trở nên quen thuộc trong những dịp Lễ Tết, những dịp vui của đồng bào Thái nơi đây .

635342939651880674.jpgTrong bộ phận của khèn Bè có ống, lưỡi, chốm pì hay gọi là bệ khèn, sau đó xếp theo thứ tự và dùng những dây lạt thắt các bộ phận lại. Quan trọng nữa là sáp ong ruồi phải làm sao để hàn cho kín, nếu không thì thổi nó rât mệt, thậm chí nó không kêu nữa.

Trong chiếc khèn Bè, bộ phận quan trọng quyết định hành động âm thanh là lưỡi khèn, Lưỡi khèn được làm bằng đồng hoặc bạc trắng, được đánh mỏng dính để gắn vào trong những ống khèn, độ tỉ mỉ trong chế tác lưỡi khèn và trình độ thẩm âm của nghệ nhân quyết định hành động âm thanh của mỗi cây khèn .

Cây Pí

cay-pi.jpg

Pí của người Thái có nhiều loại. Mỗi loại có một âm thanh khác nhau :

–      Pí pặp đơn gồm 1 ống, có 6 lỗ và lưỡi gà bằng đồng, thường được các chàng trai thổi vào ban đêm thay cho đi chọc sàn với âm thanh vang lên trữ tình để cô gái cảm động rồi mở cửa cho vào nhà.
–      Pí pặp kép được ghép từ hai chiếc pí pặp đơn với nhau, được thổi vào buổi sáng sớm với giai điệu vui nhộn.
–      Pí thui có độ dài khoảng 1m, có 6 lỗ, không có lưỡi gà, được người Thái thổi với âm thanh du dương, đượm buồn để bày tỏ sự nuối tiếc cho mối tình đẹp của hai người yêu nhau say đắm nhưng không thành.
–      Pí tam lay được ghép lại từ 3 ống nứa, mỗi ống gồm 1 lỗ, được các chàng trai thổi gọi bạn gái vào lúc trăng sáng.
–      Pí loong tông gồm 2 lỗ, có lưỡi gà làm bằng tre, được  thổi vào những ngày mùa nhằm cổ vũ, động viên nhau hăng say lao động, sản xuất với giai điệu vui nhộn.
–      Pí cúng có 7 lỗ, lưỡi bằng đồng, có lỗ điều chỉnh để làm rè tiếng, được dùng để thổi liên tục từ đêm đến sáng cùng với tiếng cúng của thầy Mo đuổi tà ma khi trong nhà có người ốm đau.

Tiếng pí là tiếng lòng, là nỗi niềm, là tâm tình của người thổi. Chả thế mà những đôi trai gái Thái yêu nhau, cô gái hoàn toàn có thể nhận ra đâu là tiếng pí của tình nhân mình trong rất nhiều tiếng pí, và qua tiếng pí người nghe hoàn toàn có thể cảm được tâm trạng của người thổi đang vui hay buồn. Người thổi được pí là người phải thật sự đam mê và hiểu dân ca vốn cổ dân tộc mình .

v

Ở Nước Ta, đàn môi là một trong những nhạc cụ được đồng bào những dân tộc thiểu số ưu thích, đặc biệt quan trọng là đồng bào dân tộc Thái .

 

dan-moi.jpg

Đàn môi thuộc loại nhạc khí tự thân vang, được làm bằng kim khí, đồng thau và tre với hình dáng nhỏ xíu, chỉ khoảng chừng 7 cm. Nhìn mẫu mã vẻ bên ngoài, có người sẽ cho rằng chiếc đàn môi được sản xuất bằng máy móc công nghiệp. Kỳ thực, chiếc đàn được làm trọn vẹn do đôi tay của những thợ thủ công. Chỉ những thợ kéo tay mới hoàn toàn có thể rèn được chiếc đàn môi dù nó chỉ nhỏ bé .Đàn môi không chỉ dùng để tiêu khiển mà còn được người ta sử dụng để giao duyên, thổ lộ tâm tình. Cái hay của lời tâm tình này là sự thầm kín, không cần thốt thành lời nhưng người ta vẫn hiểu được, bởi âm sắc đàn môi thân mật với giọng nói con người và đó cũng là một trong những nguyên do khiến ta như bị “ bỏ bùa ” bởi thứ nhạc cụ này .

Tính tẩu

Tính tẩu ( ha tinh tẩu ) ( còn gọi là đàn Tính hay đàn Tẩu ) là nhạc cụ khảy dây được dùng phổ cập của dân tộc Thái. Trong tiếng Thái, tính có nghĩa là đàn, còn tẩu là bầu ( quả bầu ), dịch ra tiếng Việt, tính tẩu có nghĩa là đàn bầu. Để khỏi nhầm lẫn loại đàn bầu của người miền xuôi, nhiều người gọi tính tẩu là đàn tính nhưng nếu dịch ra “ đàn đàn ” thì sai. Do đó chỉ cần hiểu đàn tính là cách gọi tắt của đàn tính tẩu. Tính tẩu có âm sắc êm dịu, thanh thoát. Khi phát ra âm cao nó gần giống với tiếng đàn tam .

tinh-tau.jpg

Tính tẩu có những bộ phận chính là bầu vang, cần đàn và dây đàn. Tính tẩu thuộc bộ dây, âm vực hoàn toàn có thể đạt tới 3 quãng tám. Tuy nhiên người diễn chỉ sử dụng những âm trong vòng 2 quãng tám và một vài âm hơn nữa .Đối với dân tộc Thái tính tẩu là nhạc cụ chính, dùng để độc tấu, đệm hát và chơi giai điệu múa. Các chàng trai người Thái vừa đàn tính tẩu vừa múa bằng nhạc cụ này. Khi đệm hát, tính tẩu thường chơi giai điệu của lời ca. Trong nhạc múa tính tẩu có những chuyên nghiệp riêng .

 

Người con gái Thái, lần tiên phong được nghe tiếng đàn tính tẩu như tâm sự của chàng trai đến làm quen, tiếng đàn như sợi dây tình điệu đàng, họ yêu nhau. Nhiều cặp đã nên vợ chồng qua tiếng đàn tính tẩu .Cuộc sống văn minh đi kèm với những thay đổi nhưng với những nét độc lạ của mình, những âm vang say sưa với điệu khèn, tiếng Pí, đàn môi, tính tẩu, … như thế này có lẽ rằng vẫn sẽ còn ngân nga gắn bó với những người Thái, với nơi vùng cao Mai Châu như một phần không hề thiếu .