Nghiên Cứu Lịch Sử

thai_lan

Đặng Thanh Tuấn

Dân tộc Thái mới dựng nước chỉ có từ thế kỷ 14. Tuy nhiên họ là môt dân tộc đã xuất hiện truyền kiếp ở phía nam của Nước Trung Hoa. Họ thuộc chủng Nam Á ( hay đại tộc Bách Việt ). Đây là nhóm mà nhà khảo cổ Pháp Bernard Groslier thường gọi là nhóm Thái-Việt. Bị xua đuổi bởi quân của Tần Thủy Hoàng, người Thái chống lại mãnh liệt bao lần. Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc, những thần dân của những vương quốc Ba và Thục ( hay thường gọi là Ba Thục ) bị quân Tần thôn tính ở Tứ Xuyên ( 1 ) là người Thái cổ ( hay người Tày cổ ). Họ cũng thuộc về nhánh Âu của chủng Nam Á ( hay Ngu theo lời nói người Mường hay Ngê U theo tiếng Tàu Quan Thoại ) trong đó có người Thái và người Tày .

 Đối với ông cũng như với các nhà nghiên cứu  Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đình Khoa, Hà Văn Tấn vân vân thì chủng  Nam Á gồm có 4 nhóm riêng biệt như sau: nhóm Môn-Khơ Me, nhóm Việt-Mường, nhóm Tày-Thái và nhóm Mèo -Dao thêm vào đó có thêm nhóm Nam Đảo   (Chàm, Raglai, Êdê ) để có thể định nghĩa giống chủng Cổ Mã Lai (Indonésien) (2). Sự tham gia của người Thái trong việc thành lập vương quốc Âu Lạc  của Thục Phán (hay An Dương Vương) không thể chối cải được sau khi Thục Phán đã thành công đánh bại vua Hùng cuối cùng của nhà nước Văn Lang. Cái tên Âu Lạc phản ánh hiển nhiên sự liên kết  chặt chẽ  của hai dân tộc Việt, một  nhánh Âu (Thái cổ) và  một nhánh Lạc (Việt cổ).  Hơn nửa, Thục Phán   là một người Việt chi  Thái, điều nầy cho thấy rỏ ràng  sự đoàn kết và sứ mệnh lich sử chung của hai dân tộc Việt và Thái trước sự bành trướng của người Hoa. Theo giáo sư  Đào Duy Anh, Thục Phán  thuộc gia đình qúi tộc nước Thục. Tất cả đều được mách lại trong các thư tịch Tàu (Kiao -tcheou wan-yu ki hay  Kouang-tcheou ki) nhưng bị bác bỏ bởi  một  số   sử gia Việt vì vương quốc Shu (Thục) ở quá xa vương quốc Văn Lang nhất là bị thôn tính quá sớm bởi Tần quốc  từ 316 trước công nguyên (hơn nửa thế kỷ trước khi lập vương quốc Âu Lạc). Nhưng theo nhà văn  Bình Nguyên Lôc, Thục Phán bị mất nước, buộc lòng phải dung  thân lúc còn  trẻ với các bộ hạ ở môt nước nào mà  thời đó phải có quan hệ sắc tộc (ngôn ngữ  và văn hóa) cũng như họ có nghĩa là nước Tây Âu ở bên cạnh nhà nước Văn Lang của  dân Việt. Hơn nửa người Tàu không có lợi chi viết sai sử  học khẳng định  đây là một hoàng thân của nước Thục cai trị nước Âu Lạc. Việc tá túc của Thục Phán và bộ hạ ở Tây Âu cần có một thời gian  trong cuộc di tản vì vậy  có  60 năm sau đó   mới có sự sáng lập vương quốc Âu Lạc qua sự giải thích. Nhưng gỉả thuyết  nầy không vững vì nhất là thời đó có 3000 cây  số phải  vượt để đến Tây Âu. Vả lại Thục Phán cầm đầu một đạo binh có 3 vạn  quân lính. Không thể   nào  một đạo quân như vậy có thể  tàn hình và di chuyển mà ngưởi Tàu không biết  được vì  không những cần sự tiếp tế  lương thực  mà còn vượt qua bao nhiêu khu núi rừng quản trị bởi các bộ lạc thù địch hay thân Tàu. Chắc chắn Thục Phán phải   tìm được ở Tây Âu tất cả những gì cần thiết ( quân bị, lương thực)  trước khi  thôn tính nước Văn Lang.  Theo giả thuyết gần đây, Thục Phán là thổ lĩnh của một  bộ lạc  liên minh Tây Âu và  con của Thục Chế, vua của nước Nam Cương   thuộc về vùng Cao Bằng và nam Quảng Tây Trung Quốc ngày nay. Có   sự trùng khớp thống nhất giữa những linh vật được mách đến trong truyền thuyết nỏ thần  của người dân Việt và những tập tục   trong  truyền thống của người Tày (Thái cổ). Rùa vàng, gà trắng là những linh vật có ý nghĩa biểu tượng quan trọng. An Dương Vương (Thục Phán)(Ngan-yang wang) là một nhân vật lịch sử. Với sự khám phá các di tích ở Cổ Loa  huyện Đông An, Hànội  chúng ta có thể khẳng định là vương quốc  Âu Lạc có thật và được dựng bởi Thục Phán  khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, người sáng lập ra  nước Nam Việt.

Bạn đang đọc: Nghiên Cứu Lịch Sử

Nằm ở những tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, Tây Âu là vương quốc của người Tày và người Thái cổ ( Tổ tiên của người Thái ngày này ). Chính ở nơi nầy mà Thục Phán liên minh những bộ lạc trước khi thôn tính nước Văn Lang. Nên nhớ lại Tần Thủy Hoàng phải cổ động thời đó hơn 50 vạn binh lính trước khi lấn chiếm Tây Âu và sau khi diệt nước Sỡ với 60 vạn quân. Ngoài sự chống cự mãnh liệt của những chiến binh, Tây Âu phải là một nước có tầm vóc quan trọng và khá đông dân để Tần Thủy Hoàng phải dùng một chiến binh như vậy. Mặc dầu thủ lĩnh Tây Âu Dich Hu Tống bị tử nạn, sự kháng cự của dân Tây Âu cũng thu gặt được vài hiệu quả đáng kể trong vùng Quảng Tây với cái chết của tướng Tàu Uất Đồ Thư đứng đầu một đội binh 50 vạn quân và được nhắc đến trong bộ sách Hoài Nam Tử mà hoài nam vương Lưu An, cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang, người sáng lập nhà Hán, biên soạn vào giữa năm 164 và 173 trước Công Nguyên .
Tây Âu được nổi tiếng thời đó nhờ có những chiến sỹ gan góc. Tính tình của người Thái thưở xưa được nhà văn hào và nhiếp ảnh Pháp Alfred Raquez ( 3 ) miêu tả như sau :
Người Xiêm La thưở xưa, rất hiếu chiến và thích phiêu lưu, thường hay sinh sự gây cuộc chiến tranh không ngớt với những nước láng giềng và hay thường thắng lợi trong những cuộc viễn chinh. Mỗi lần có được một chiến dịch mỹ mãn, họ thường mang về theo họ những tù binh và đày những người nầy ở những vùng đất của Xiêm La càng xa quê quán của họ càng tốt .
Khi Tây Âu và Âu Lạc bị Triệu Đà tướng của nhà Tần thôn tính, toàn bộ người Thái cổ ở lại có con cháu về sau nầy trở thành nhóm người thiể u số Tày ở Việtnam. Còn những người Thái cổ khác, họ chạy trốn lên Vân Nam mà họ cùng nhau liên hiệp ở thế kỷ thứ 8 để lập vương quốc Nam Chiếu rồi sau đó nước Đại Lý mà Phật Giáo Đại Thừa bất đầu gia nhập. Chẳng may những nước Ba Thục, Tây Âu, Âu Lạc, Nam Chiếu, Đại Lý đều bị người Hoa thôn tính trong cuộc di dân của người Thái. Để đối phó áp lực đè nén không ngừng của người Hoa và trước hàng rào vạn vật thiên nhiên không lay chuyển của Hy Mã Lạp Sơn, nhóm người Thái cổ buộc lòng đi trở xuống và xâm nhập lại bán đảo Đông Dương ( 4 ) nhưng di cư lần nầy từ từ theo quy mô nan quạt, chia ra nhiều ngã và nhiều nhóm vào đất Lào, Tây Bắc Việtnam, miền bắc Vương Quốc của nụ cười và vùng Thượng Miến Điện .

 Một đoạn đường  lịch sử chung với dân tộc Việt

Theo những văn bản lịch sử vẻ vang Thái tìm được ở Việtnam thì có ba đợt di dân quan trọng của dân cư Thái ở Vân Nam vào Tây Bắc Việtnam suốt thế kỷ 9 và 11. Đó là thời kỳ mà vương quốc Nam Chiếu bị Đại Lý thôn tín rồi ba thế kỷ sau đó đến lượt Đai Lý bị diệt trừ bởi quân Mông cổ của Hốt Tất Liệt ( Kubilai Khan ), cháu nội của Thành Các Tư Hãn ( Gengis Khan ). Khi lúc xâm nhập, dân cư Thái cổ chia ra nhiều nhóm : nhóm Thái ở Việtnam, nhóm Thái ở Miến Điện ( thường gọi là người Shan ), nhóm Thái ở Lào ( hay Ai Lao ) và nhóm Thái ở miền bắc của xứ sở của những nụ cười thân thiện thời nay. Mỗi nhóm mở màn theo đạo của những nước mà họ được cư trú. Vì vậy nhóm người Thái ở Việtnam không có cùng đạo với những nhóm Thái ở nơi khác. Họ vẫn liên tục thờ đa thần và theo tín ngưỡng « vạn vật hữu linh ». Không phải trường hợp của nhóm Thái sống ở miền bắc của Thailand, Miến Điện và Ai Lao vì ở những nơi nầy thời đó có những vương quốc của nguời Môn và Khơ Me theo Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy ( Đế chế Angkor, những vương quốc Môn Dvaravati, Haripunchai, Lavo vân vân … ) sau khi vương quốc Phù Nam bị tan rã. Người Môn đóng một vai trò quan trọng so với người Thái trong việc truyền bá Phật giáo Nam Tông phát xuất từ tập quán của người Cinghalais. Ngoài hai thành phần chính được trông thấy ở tôn giáo của người Thái đó là sự tôn thờ những vị thần trong tín ngưỡng dân gian ( Phra ) và Phật giáo nguyên thủy còn thấy sự hiện hữu của đạo Bà La Môn. Đạo nầy giử một vai trò rất quan trọng ở Khu vực Đông Nam Á trước khi Phật giáo nguyên thủy thành công xuất sắc lan khắp ở Miên Điện, xứ sở của những nụ cười thân thiện, Lào và Cao Miên. Trong đền thờ của người Thái thường thấy có rất nhiều thần thánh cũng như có nhiều thần linh. Thuyết vạn vật hữu linh cũng không có chi tương khắc và chế ngự với Phật giáo Nam Tông vì thế những thần thánh che chở mà người Thái thường gọi là Phra được đặc để và tôn thờ ở vị trí giữa những nhân vật sùng bái và những thần Hindu có liên hệ mật thiết với Phật giáo tiểu thừa. Họ xem như thể những người hầu cận của đức Phật. Phật giáo tiểu thừa đồng ý thuận tiện những nghi lễ địa phương. Bởi vậy thường thấy luôn luôn một đền nhỏ tôn thờ thần bốn mặt Brahma ở chung quanh những toà lầu quan trọng của người Thái với chủ đích là để bảo trợ và xa lánh những ma qủy. Các thần linh cũng được thờ kính ở những nơi công cộng như chùa chiền, hoàng cung, phi trường vân vân …
Vì họ đến tá túc muộn ở những vương quốc nhận họ nên họ phải đảm nhiệm toàn bộ những việc làm « nặng nhọc ». Người Cao Miên thường gọi họ với cái tên Syàma ( Xiêm La ), một chữ phạn có nghĩa « ngăm đen » vì da họ ngăm đen. Chính với cái tên nầy họ được nhắc đến vào năm 1050 trên một văn bia của người Chàm mà được tìm thấy ở Po Nagar, xem họ như những tù binh trong cuộc cuộc chiến tranh giữa Chămpa và đế chế Angkor. Thời đó họ thường là những người trinh thám quả cảm, những người đánh thuê trong quân đội của đế chế Angkor mà sự hiện hữu được mách lại trong một bức hình chạm nổi thấp Angkor Vat. Theo nhà khảo cổ học Pháp Bernard Groslier, họ chỉ là những người dân quê miền núi nghịch ngợm, không chữ nghĩa và cũng không có tôn giáo chi cả. Dạo đó họ không thể nào có đựơc suôn sẻ để làm lay động những vùng biên thùy của đế chế Angkor cũng như những vương quốc người Môn có nền văn hóa truyền thống Dvaravati .
Không phải trường hợp của những người dân Việt vì cùng thời đó, họ khởi đầu lấn áp Chămpa. Theo nhà khảo cổ Bernard Groslier, họ có đủ năng lực thiết kế xây dựng một quốc gia cường mạnh sau suốt một thời hạn dài bị Tàu đô hộ, có đủ điều kiện kèm theo chống chọi cũng như người Chàm. Ngược lại, người dân Thái phải đợi tối thiểu hai thế kỷ để mới tiếp thu được bài vở của gia chủ họ trước khi mới hoàn toàn có thể sửa chữa thay thế và vượt qua mặt chủ của họ. Đến từ phương bắc và thường tiếp xúc với nền văn hóa truyền thống Dvaravati, người dân Thái chịu cải sang đạo Phật Giáo Nguyên Thủy rất mau lẹ nhưng họ liên tục vẫn giữ cấu trúc xã hội dựa trên những mường hùng mạnh và phong kiến. Đối với họ, Thailand vẫn được xem như là Mường của những người Thái tự do, một địa hạt rất lớn và hùng mạnh. Luôn cả ngay trên thiên đường họ cũng tổ chức triển khai chia ra thành những địa hạt quản trị bởi những vị thần ( hay Devata ). Các dân cư Thái ở Việtnam cũng nhắc đến cách tổ chức triển khai hành chánh nầy. Cũng hợp tình hài hòa và hợp lý cách thực hành thực tế của người Thái trong việc tập hợp tù binh qua sự nhận xét của Alfred Raquez như sau :
Người dân Thái không có đày những tù binh ở khắp nơi quốc gia của họ. Ngược lại, họ để những tủ binh có quyền tựu tập hợp lại, xây dựng ra những vùng gọi là « khong » mà ở đầu của mỗi « khong » có một lãnh tụ cùng nguồn gốc quê quán với những tù binh thường gọi là naïkhong. Những người nầy đuợc xem như thể những nhà thẩm phán tối cao có quyền xử lý toàn bộ mọi yếu tố của hội đồng và chỉ có họ mới hoàn toàn có thể trực tiếp thẳng và liên hệ với chính quyền sở tại .
Mường là cơ sở nồng cốt trong cách tổ chức triển khai xã hội, chính trị và tôn giáo của người Thái. Các mường hoàn toàn có thể nhỏ hay lớn tùy theo yếu tố size và quan trọng. Có thể nói nó giống như ở Pháp với huyện hay tỉnh lị. Nhưng khi nào cũng có ở TT một mường gọi là Mường Luông mà tổng thể mường khác điều phải hướng về và qui phục. Đây là sự nhận xét với cách tổ chức triển khai về những mường Thái ở Việtnam. Mỗi mường được một lĩnh tụ hay lãnh chúa thường thuộc về dòng quí phái quản trị và hơn nửa có một vai trò tôn giáo rất quan trọng. Chính người nầy có trách nhiệm tôn thờ thần đất ( hay thổ địa ) và có quyền trên những dân làng. Những người nầy phải làm nghĩa vụ và trách nhiệm quân sự chiến lược khi có cuộc chiến tranh mà còn phải làm lao dịch. Mỗi mường có tập quán riêng tư. Tổ chức hành chánh và quân sự chiến lược của họ cũng tựa như người Mông Cổ cũng có sự phân biệt giai cấp giữa nhóm qúy tộc, chiến sỹ và nhóm người còn lại ( những tiểu vương và những người nông nô ). Mỗi người đều có cấp bậc và chức vị trong một mạng lưới hệ thống có tên là sakdina ( sakdi có nghĩa là có quyền và na thì ruộng lúa ). Mỗi người dân có được thí dụ 25 rai ( tức là rẫy theo tiếng việt, số lượng đất tương tự là 1600 mét vuông ). Một người chủ điền với cấp bực là 400 thì có quyền quản trị được 16 nông dân vì 16 = 400 / 25. Còn một người qúi tộc hay lãnh chúa hoàn toàn có thể được quản trị đến 400 người nông dân nếu câp bực của họ lên đến 10000 trong mạng lưới hệ thống sakdina ( 400 = 10000 / 25 ). Nói tóm lại tùy theo cấp bực mà hoàn toàn có thể nhiều hay ít số người để thao tác nghĩa vụ và trách nhiệm quân sự chiến lược và lao dịch. Mỗi mường gồm có nhiều thôn, mỗi thôn được quản trị bởi một hội đồng quản trị gồm những người có vị thế trong thôn ( thân hào ) và có từ 40 đến 50 nhà mà đôi lúc hoàn toàn có thể lên đến 100 nhà. Cũng như người dân Việt, dân Thái thường dựng những thôn và mường ở những vùng đất phù sa ( Chao Praya thí dụ ) hay những vùng mà có những con sông hay những kinh thuận tiện trong việc trồng lúa nước, chuyển dời và trao đổi sản phẩm & hàng hóa với những mường khác .
Lợi dụng sự kiệt quệ của đế quốc Angkor qua những cuộc cuộc chiến tranh không ngừng với những nước láng giềng ( Chămpa và Việtnam ) và những khu công trình thiết kế xây dựng những đền vĩ đại như Bayon, Angkor Thom, Ta Prohm, Angkor Vat vân vân … ) của vua Jayavarman VII nên khi ông nầy vừa qua đời thì với những cuộc xâm lấn của đoàn quân Mông Cổ ở Đông Dương ( đế quốc Khơ Me năm 1283, Chămpa ( 1283 – 1285 ), Đại Việt ( hay Vietnam ) của nhà Trần ( 1257 – 1288 ) ) và vương quốc Pagan ( Miến Điện ) ), người dân Thái họ mở màn cũng cố quyền lực tối cao chính trị ở xứ sở của những nụ cười thân thiện cũng như ỏ Miến Điện .
Ở phía bắc của lưu vực sông Ménam của xứ sở của những nụ cười thân thiện, có hai thủ lỉnh người Thái tên là Po Khun Bangklanghao và Po Khun Phameung đứng lên đánh đuổi người Khơ Me và người Môn và đã thành công xuất sắc trong việc giải phóng Sukhothai năm 1239. Po Khun Bangklanghao trở thành vua tiên phong của vương quốc Thái độc lập với cái tên Sukhothai có nghĩa là buổi đầu của niềm hạnh phúc. Nhưng phải nói nhờ con trai thứ nhì của ông là Rama Khamheng ( thường gọi là Ramkhamhaeng Đại Đế ) có công trạng mở mang bờ cõi bằng những thôn tính không những những vùng miền bắc của Mã Lai cho đến tận Ligor mà còn luôn những vùng của đế quốc Khơ Me gần Luang Pra Bang ( Ai Lao ). Cùng thời đó ở phiá bắc Xứ sở nụ cười Thái Lan, sau khi thôn tính Haripunjaya năm 1292, một thủ lỉnh liên minh tên là Mengrai dựng vương quốc Lanna ( có nghĩa là vương quốc của một triệu nương lúa ) và đóng đô ở Chiang Mai. Từ nay, Rama Khamheng và Mengrai chia nhau để thống trị, một người ở trung bộ và người kia thì ở phiá bắc của xứ sở của những nụ cười thân thiện. Có những tiểu vương quốc thái được dựng ở Phayao và Xiang Dong Xiang Thong ( Luang Prabang ) ( Ai Lao ). Ở Miến Điện, vương quốc Pagan không chống chọi nổi trước sự xâm lấn của đoàn quân Mông cổ nên người Thái ở Miến Điện ( người Shan ) thừa dịp đó làm tan rã vương quốc và dựng ra nhiều vương quốc shan .

( 1 ) : Quê hương gấu trúc. Chính ở nơi nầy tìm ra được văn hóa truyền thống Tam Tinh Đôi ( Sanxingdui ) nổi tiếng với những mặt nạ đồng và những tín hiệu trên khí giới. Cũng ở đây Lưu Bị dựng vương quốc Thục Hán thời Tam Quốc. ( 2 ) Chủng tộc Khu vực Đông Nam Á thời tiền sử. ( 3 ) : Comment s’est peuplé le Siam, ce qu’est aujourd’hui sa population. Alfred Raquez, ( publié en 1903 dans le Bulletin du Comité de l’Asie Française ). In : Aséanie 1, 1998. pp. 161 – 181. ( 4 ) Đông Dương theo nghĩa rộng. Không phải Đông Dương thời Pháp thuộc .

Vương quốc Sukhothaï

Một nền văn hóa truyền thống mới được phát sinh với sự thành lâp vương quốc cổ tiên phong của người Thái ở Sukhothaï. Dưới sự hướng dẩn của Ramkhamhaeng Đại Đế, người Thái biết tận dụng và thừa kế toàn bộ những gì thuộc về văn hóa truyền thống địa phương, hoàn toàn có thể nói đây là một thời hoàng kim thịnh vượng của triều Phra Ruang. Theo nhà khảo cứu Pháp Georges Coedès, người dân Thái là những người tiếp thụ tài ba lỗi lạc. Thay vì tiêu diệt và ruồng bỏ tổng thể những gì thuộc về của những chủ cũ của họ ( người Môn, người Khơ Me ) họ, thì ngược lại người dân Việt thường không ngó ngàng khi xâm lăng Chămpa, cố ý chiếm hữu và tìm lại những đề tài ở trong hạng mục nghệ thuật và thẩm mỹ của người Môn và người Khơ Me để hình thành và tạo cho họ một phong thái riêng biệt bằng cách để biểu lộ ra những tập quán địa phương trong kiến trúc ( chedis hay stupas ) và nghệ thuật và thẩm mỹ làm tượng ( những chư Phật ) mà được thường trông thấy. Phật giáo Đại thừa bị từ bỏ từ nay và được sửa chữa thay thế bởi Phật giáo nguyên thủy. Chính ở quốc giáo nầy mới thấy được cái thẩm mỹ và nghệ thuật của người Thái qua những công thức hình ảnh và tạo hình mà họ mượn một cách hiển nhiên ở trong nghệ thuật và thẩm mỹ của người Khơ Me và người Dvaravati ( Môn ) .
Sự Open thẩm mỹ và nghệ thuật Sukhothaï chứng tỏ được cái ý muốn canh tân và sinh lực đáng kể dù nó còn hấp thụ nhiều tác động ảnh hưởng thâm thúy và truyền thống lịch sử cổ đại của người Tích Lan, Miến Điến và Khơ Me trong cách tạo những pho tượng Phật. Dù được biểu lộ qua nhân hình, những chư Phật được chạm khắc theo những qui tắc rất đúng mực mà những nghệ nhân Thái phải tôn trọng một cách tỉ mỉ. Theo nhà khảo cổ Pháp Bernard Groslier thì cũng không có sự phóng đại quá đáng trong cái đẹp của những tác phẩm nầy mà phải coi xem đây là những tác phẩm có tính cách làm điển hình nổi bật phong thái và bộc lộ cái độc lạ của một xã hội vừa mới dựng và năng động. Tuy nhiên cũng bộc lộ lên một phần nào sự thiếu hiện thực ở những dái tai của những tượng Phật hay ở những búi tóc và những tay chân quá dài. Qua thẩm mỹ và nghệ thuật điêu khắc của Sukhothai, tất cả chúng ta cũng nhận thấy đây là một thẩm mỹ và nghệ thuật trọn vẹn độc lạ và bộc lộ một thời kỳ mà dân tộc Thái cần có một truyền thống văn hóa truyền thống và tôn giáo và một đậm chất ngầu riêng tư mà thường được minh hoạ qua một thí dụ trong cách tạo tư thế buớc đi của Đức Phật, một chân gập về phía sau, gót chân thì nâng lên một cách êm ả dịu dàng như một tín hiệu khiến hình ảnh nầy nó ăn sâu vào tâm lý của người dân Thái nhất là có sự linh động trong bước đi lưu loát của Đức Phật và dáng đi rất nhẹ nhàn và thư thản. Đầu thì hình oval, những cung mày cong lại hình bán nguyệt và được nối dài với một mũi khoằm và dài, tóc thì uốn quắn chạy dài xuống trán, thường có một nhục kế nổi lên giống như ngọn lửa trên đỉnh đầu ( tác động ảnh hưởng Tích Lan ), một dòng đôi kép quanh miệng ( tác động ảnh hưởng Khơ Me ), quần áo thường bám sát vào thân người, đó là những đặc thù của nghệ thuật và thẩm mỹ Phật giáo Sukhothaï .
Dưới triều đại của Rama Khamheng ( hay thường gọi Rama quả cảm ), một xã hội mới được thành hình từ gia tài để lại của người Môn-Khơ Me và noi theo quy mô hành chính và xã hội ở người Mông Cổ. Chữ Thái được tạo ra và dựa trên kiểu chữ viết Khơ Me mà nguồn gốc đến từ miền nam Ấn Độ. Phật giáo Theravada được công nhận từ nay là quốc giáo. Tuy nhiên thuyết duy linh vẫn liên tục vĩnh cửu đơn cử là người dân Thái vẫn còn tôn thờ thần đất mà vua Rama Khamheng thường nhắc đến. Ông dành một ngôi đền ở trên một ngọn đồi gần Sukhothai để thờ một thần linh tên là Phra Khapung Phi được xem là có chức vị cao hơn mọi thần khác để phù hộ sự thịnh vượng của vương quốc và ông có trách nhiệm cúng tế mỗi năm. Chính cái thái độ, tục lệ nầy cũng được còn thấy ở đầu thế kỷ 20 ở Việtnam với Đàn Nam Giao ở Huế mà vua nhà Nguyễn thường tổ chức triển khai tế lễ mọi năm vì thiên tử là con của Trời phải có nhiêm vụ cầu Trời ban phước lành cho quốc gia ( cũng thế ở Nước Trung Hoa với Thiên Đàn ở Bắc Kinh ) .
Cũng không có chi quá bất ngờ khi ngày này còn thấy cái tập quán, cái khái niệm nầy qua tượng Phật Ngọc mà người dân Thái thường gọi là Phật Phra Keo Morakot và được xem như thể Thần phù hộ của Đất nước xinh đẹp Thái Lan và che chở triều đại Chakri trong nhà thời thánh của hoàng cung ở Bangkok. Theo Bernard Groslier, sự tương đương nầy có địa thế căn cứ vì người dân Thái cũng thuộc về quốc tế cổ xưa có cùng tư duy với người Trung Quốc. Chúng ta tự hỏi về việc so sánh nầy vì tất cả chúng ta thừa biết cũng như người dân Việt, người dân Thái họ cũng thuộc về chủng tộc Bách Việt mà phần đông những tộc đều theo thuyết duy linh và thuộc về quốc tế nông nghiệp. Họ củng thường quen tế lễ thần đất trước khi chịu tác động ảnh hưởng của Nước Trung Hoa. Rama Kham Heng trong thời ngự trị rất thành công xuất sắc trong việc giao hảo thân thiện với Trung Quốc của Hốt Tất Liệt. Chính ông khuyến khích những nghệ nhân Trung Hoa đến định cư ở Hà Nội Thủ Đô. Chính nhờ vậy với sự khôn khéo và thành thạo của những người nầy mà vuơng quốc Sukhothaï được biết đến sau đó không lâu với những đồ gốm nổi tiếng Sawankhalok

Vương quốc Ayutthaya

ayuthaya-600x401

Vương quốc Sukhothaï suy yếu và không còn sống sót được bao lâu sau khi Rama Khamheng đại đế qua đời vì những vua thừa kế Lo Tai ( 1318 – 1347 ) và Lu Tai ( 1347 – 1368 ) vùi mình trong việc mộ đạo mà quên chú ý đến những chư hầu mà trong đó có một vị hoàng tử rất gan góc và đầy nghị lực ở huyện U Thong ( * ), nổi tiếng có nhiều tham vọng về đất đai. Ông nầy không ngần ngại chinh phục vua Lu Tai và trở thành vua tiên phong cùa một triều đại mới lấy Ayutthaya nằm ở thung lũng Ménam Chao Praya làm Hà Nội Thủ Đô. Ông lấy vương hiệu Ramathibodi I ( hay là Ramadhipati ). Vuơng quốc của ông không được thống nhất theo cái nghĩa hẹp mà thường thì dùng mà nó chỉ giống một phần nào một mạng lưới hệ thống Mạn Đà Là ( mandala ) ( * * ). Vua ngự trị và ở vị trí TT của nhiều vòng đai đất của quy mô Mạn Đà Là thường thấy ở Khu vực Đông Nam Á. Vòng đai đất xa nhất thường gồm có những vùng độc lập ( hay muờng ) thường được quản lý mỗi vùng bởi một hoàng tộc thân thích của vua còn vòng đai kế cạnh gần bên vua thì được những tổng đốc quản lý và được vua chỉ định. Một chiếu chỉ đề từ năm 1468 hay 1469 mách lại có đến 20 chư hầu đến ăn mừng và tỏ lòng qui phục vua Ayutthaya .

( * ) U Thong : huyện toạ lạc trong tỉnh Suphanburi. Đây là vương quốc Dvaravati mà người Trung Hoa thường nói đến thưở xưa với tên là T’o Lo po ti. Chính ở nơi nầy nhà sư nổi tiếng Trung Quốc tên là Huyền Trang ( hay Tam Tạng ) được ghé sang đây lúc ông đi thỉnh kinh Phật ở Ấn Độ. ( * * ) Mandala được dùng bởi học gỉả WOLTERS, O.W. 1999. History, Culture and Religion in Southeast Asian Perspectives. Revised Edition, Ithaca, Cornell university and the Institute of Southeast Asian Studies. pp 16-28 .

Tuy nhiên thống trị và quyền lực tối cao của vua cũng có số lượng giới hạn nhất là so với những vùng xa xôi mà ở những nơi nầy, những lãnh tụ có uy thế hoàn toàn có thể bất kể khi nào đòi độc lập khi họ có tham vọng. Với vai trò một lãnh tụ tôn giáo ( dharmarâja ), vua hoàn toàn có thể tạo thế cân đối để làm giảm đi sự tranh đua tiềm lực của những chư hầu. Chính thế cho nên vương quốc Ayutthaya thường có những cuộc cuộc chiến tranh kế vị và đấu tranh nội bộ trong suốt thời hạn của triều đại .
Trong thời kỳ hùng mạnh, vương quốc Ayutthaya chiếm cứ đất đai khoảng chừng chừng như chủ quyền lãnh thổ mà Vương Quốc của nụ cười lúc bấy giờ có trừ bỏ đi vương quốc Lanna ( mà Hà Nội Thủ Đô là Chiang Mai ) và một phần đất phía đông của Miến Điện. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Anh thì loại hình thể chính trị nầy cũng có một thời ở đầu thế kỷ thứ 11 ở Việtnam nhưng sau đó bị mất đi nhường lại cho hình thể chính trị mà quyền lực tối cao nằm trong tay chính quyền sở tại TW lúc dời đôi về Thăng Long ( Hànôi ) dưới triều đại Lý Thái Tổ ( Lý Công Uẩn ). Theo nhà sử gia Thái Charnvit Kasetsiri, hoàng tử U Thong nầy xuất thân từ một mái ấm gia đình người Nước Trung Hoa. Nhờ quan hệ hôn nhân gia đình với vua của vương quốc Lopbury, ông được chọn trong việc thừa kế ông nầy. Từ đó, Ayutthaya trở thành TT quyền lực tối cao chính trị của người dân Thái cho đến khi Ayutthaya bị tàn phá bởi quân Miến Điện của vua Hsinbyushin vào năm 1767. Với chủ nghĩa bành trướng, Ramathibodi không ngần ngại xâm lăng Angkor năm 1353. Cuộc xâm lược nầy được tái diễn lại 2 lần sau nầy với Ramesuen ( con trai của vua Ramathibodi ) vào năm 1393 và với vua Borommaracha II năm 1431. Người Khơ Me buộc lòng dời đô về Nam Vang với Ponheat Yat. Mặc dầu như vậy, những vua của triều đai Ayutthaya vẫn liên tục tự hào họ là những người thừa kế của đế quốc Angkor. Họ không ngầ n ngại lấy lại cho họ cách tổ chức triển khai của triều đình và những quan chức của kẻ thất bại mà luôn cả những đội vũ công và đồ trang sức đẹp. Sự trở lại với nghi lễ và truyền thống lịch sử của chế độ quân chủ Angkor càng rất rõ ràng. Vua trở thành một phần nào một ông Phật sống mà sự Open trước quần chúng càng hiếm có. Các bề tôi không được nhìn thẳng vào mặt vua ngoài trừ những người thân thích. Họ phải dùng một ngôn từ đặc biệt quan trọng khi trò chuyện với vua. Vì có quyền lực tối cao thiêng liêng, vua hoàn toàn có thể định đoạt số mệnh của bề tôi. Dưới triều đại của Ramathibodi một loạt cải cách được thực thi. Ông mời những thành viên của một tăng đoàn từ Tích Lan đến Đất nước xinh đẹp Thái Lan để thiết lập những trật tự tôn giáo mới. Vào năm 1360 Phật giáo nguyên thủy được công bố là quốc giáo của vương quốc Ayutthaya. Một luật đạo gồm có những luật tục Thái và dựa trên Dharmashastra của Ấn Độ được vận dụng. Còn thẩm mỹ và nghệ thuật Ayutthaya thì nó có tiến triển buổi đầu dưới tác động ảnh hưởng của thẩm mỹ và nghệ thuật Sukhothaï nhưng rồi nó liên tục tìm cảm hứng trong lãnh vực điêu khắc trước khi nó quay trở lại với những quy mô Khơ Me từ lúc vua Trailokanatha kế vị vua cha lên ngôi vào năm 1448. Nói tóm lại, trong phong thái Ayutthaya, có sự hỗn hợp của phong thái Sukhothaï và phong thái Khơ Me .
Kinh thành Ayutthaya được miêu tả bởi ông thầy tu François-Timoléon de Choisy, một thành viên của phái đoàn Pháp được vua Louis XIV gởi sang Thailand để viếng thăm vua Narai vào năm 1685 là một thành phố đa ngôn ngữ và tuyệt vời. Kinh thành Ayutthaya trở thành không bao lâu là con mồi được người Miến Điện dòm ngó nhất là kinh thành Ayutthaya nổi tiếng phong phú về của cải và sang chảnh. Mặc dầu Ayutthaya mang tên là đồn lũy không hề thất thủ bằng tiếng phạn thế mà kinh thành Ayutthaya bị cướp bóc và tiêu hủy vào năm 1569 bởi đoàn quân xâm lược Miến Điên của vua Toungoo Bayinnaung. Rồi sau nầy kinh thành lại bị tiêu hủy một lần nửa với vua Miến Điện Hsinbyushin vào năm 1767. Đoàn quân Miến Điện thừa dịp thời cơ nầy nấu chảy vàng mà họ tìm được qua những pho tượng phật nhưng họ bỏ lại một pho tượng trét bằng vữa trong một ngôi chùa ở thủ đô hà nội. Tuy nhiên dưới chất vữa nầy lại là một pho tượng bằng vàng ròng. Đây là một mẹo mà những nhà sư Thái dùng để che giấu vật báu trong lúc kinh thành bị vây hãm bởi đoàn quân Miên Điện. Chính pho tượng phật vàng nầy lúc bấy giờ được giữ ở chùa Wat Traimit tọa lạc ở khu tàu của TP. hà Nội Bangkok .
Sau khi hủy phá kinh thành Ayutthaya, đoàn quân Miến Điện trong lúc rút lui họ mang trở về không những tổng thể những chiến lợi phẩm mà họ tích lũy được và 60.000 tù binh mà luôn cả vua của vương quố c Ayutthaya và mái ấm gia đình cua ông. Từ đó vương quốc Ayutthaya bị chia cắt trọn vẹn với sự Open nhiều lãnh tụ đia phương. Kinh thành Ayutthaya không còn là TT quyền lực tối cao chính trị nửa. Theo nhà quả đât học người Mỹ Charles Keyes, Ayutthaya không còn được những ảnh hưởng tác động thiên hà để hoàn toàn có thể vững chắc lâu bền hơn. Lý do sống sót nó không còn biện bạch được nửa. Ayutthaya sẽ thay thế sửa chữa bởi một thủ đô hà nội mới Thonburi, ở cận bên Bangkok hoàn toàn có thể đến đường thủy ( để phòng ngừa trong trường hợp bị xâm lược bởi quân Miến Điện ) và được xây dựng lên bởi tổng đốc của tỉnh Tak tên Sin. Chính vì thế mà thường gọi là Taksin ( Trịnh Quốc Anh bằng tiếng Việt ) hay Taksin Đại Đế trong lịch sữ của Vương Quốc của nụ cười .
Taksin, người Trung Quốc gốc Tiều Châu, được xem như là người có công giải phóng và thống nhất quốc gia Xứ sở nụ cười Thái Lan sau khi loại trừ toàn bộ đich thủ của ông và vượt mặt đoàn quân Miến Điện ở Ayutthaya sau hai ngày chiến đấu mãnh liệt. Ông ngự trị được 15 năm ( 1767 – 1782 ). Nhờ ông mà Thailand có lại không những nền đôc lập vững chãi mà còn thêm sự thịnh vượng. Đất nước xinh đẹp Thái Lan trở thành từ đó một trong những cường quốc ở Khu vực Đông Nam Á nhất là người dân Thái giải phóng được vương quốc Lanna ra khỏi ách thống trị của Miến Điện vào năm 1774 và bành trướng ảnh hưởng tác động và tùng phục được Ai Lao và Cao Miên qua những cuộc viễn chinh quân sự chiến lược. Thái Lan bất đầu dòm ngó vị trí quan trọng ở lãnh địa Hà Tiên mà một người Minh Hương gốc Quãng Đông, Mạc Cửu đang quản trị ở đầu thế kỷ 18 trong vịnh Xiêm La. Thailand thường ôm ấp cái mộng được độc chiếm và trấn áp thương mại trong vịnh Xiêm La .
Chính ở Lào mà đoàn quân viễn chinh Thái của tướng Chakri ( vua Rama I về sau ) lấy được Phật ngọc của người dân Lào và mang về ở Thonburi vào năm 1779 trước khi để vĩnh viễn ở hoàng cung ở Bangkok. Phật ngọc trở thành từ đó là thần bảo lãnh của triều đại Chakri và có trách nhiệm bảo vệ sự thịnh vượng của quốc gia Vương Quốc của nụ cười .
Sau cái chết của vua Ai Lao Surinyavongsa, nước Lào bị chia ra thành ba vương quốc : Vạn Tương, Luông Pha Băng và Champassak và bị thống trị trong thời điểm tạm thời bởi người Thái. Ngược lại ở Cao Miên, tận dụng sự chia rẻ nội bộ trong việc thừa kế của những vua chúa và thường có chánh sách bành trướng về phía đông để trấn áp vịnh Xiêm La, người dân Thái không ngần ngại gây sự để xung đột vũ trang với những chúa Nguyễn nhất là cho đến giờ phút nầy những chúa Nguyễn có thẩm quyền dòm ngó nước Cao Miên nhất là nước nầy đã đồng ý chấp thuận cho người dân Việt định cư ở trên chủ quyền lãnh thổ của họ ( Cochinchine ) với vua Prea Chey Chetta II vào năm 1618

Những cuộc xung đột tiềm tàng với Việtnam

Mỗi bên đều có thắng lợi cũng như có thất bại. Cầm đầu một đội binh có 20 vạn binh và một đội tàu chiến, sau mười ngày vây hãm, Taksin dành thắng lợi trong việc đánh đuổi được Mạc Tiên Tứ, con của Mạc Cửu ra khỏi Hà Tiên vì Mạc Thiên Tứ không những là liên minh của những chúa Nguyễn mà còn là người bảo vệ con trai của vua ở đầu cuối của triều đại Ayutthaya đó là hoàng tử Chiêu Thúy ( Chao Chuy ). Đối với Taksin, Chiêu Thủy vẫn là mối quan ngại trọng đại vì vẫn liên tục được xem là một trong những người tranh đua kế vị ngôi vua Thailand. Qua những cuộc thất bại quân sự ở Châu Đốc và trong vùng Sa Đéc, Taksin buộc lòng đồng ý một thỏa ước hoà bình mà Mạc Thiên Tứ ý kiến đề nghị và từ bỏ Hà Tiên hoang tàn để đổi lại sư giao trả hoàng tử Chiêu Thúy cùng việc trả tự do cho cô con gái của Mạc Thiên Tứ bị bắt lúc Hà Tiên bị thất thủ và sự giữ lại trên ngôi vua của Cao Miên một vua thân Thái tên là Ang Non. Khi trở về xứ sở của những nụ cười thân thiện, Chiêu Thúy cùng người em bị bắt ở Cao Miên, bị hành quyết. Còn chúa Nguyễn Phúc Thuần ( sau nầy lấy tên là Duệ Tông ) gặp nhiều trở ngại với việc nổi dậy của đồng đội nhà Tây Sơn, đành buộc lòng bảo chứng thỏa ước và trong thời điểm tạm thời để người Thái thao túng chủ trương bành trướng chủ quyền lãnh thổ ở Lào và Cao Miên. Nhưng cuôc hưu chiến rất ngắn ngủi nhất là với Mạc Thiên Tứ vì trong thời hạn nầy ông bi đeo đuổi bởi quân Tây Sơn nhất là họ dành thắng lợi trong việc chiếm thành Gia Định ( hay Saïgon ) vào năm 1776 và bắt được Nguyễn Phúc Thuần ở Cà Mau. Mạc Thiên Tứ buộc lòng cùng bộ hạ và mái ấm gia đình sang xin tá túc ở Đất nước xinh đẹp Thái Lan với Taksin. Lúc nào cũng ám ảnh hoài nghi và đố kỵ, Taksin ra tay hành quyết gia dình của Mạc Thiên Tứ và tùy tùng trong đó có hoàng tử Tôn Thất Xuân. Để bảo tồn danh dự và phẩm cách, Mạc Thiên Tứ tự sát bằng cách nuốt một thỏi vàng. Bệnh đa nghi của Taksin càng ngày cảng lộ liễu cho đên nó trở thành một bệnh thần kinh tạo ra một hành vi khó hiểu, bạo ngược và hoang tưởng .
Đây là một trong những điểm chung thường thấy ở những vĩ nhân chính trị ( Tào Tháo thời Tam Quốc, Tần Thủy Hoàng ví dụ điển hình ). Chính tính đa nghi thôi thúc Taksin đến chổ nhốt tù những thân nhân của ông nhất là mái ấm gia đình của con rể của ông, tướng Chakri đang lao vào trong cuộc việc viễn chinh quân sự chiến lược ở Cao Miên để chống chọi lại đoàn quân Việt của hoàng tử trẻ Nguyễn Ánh. Tứớng Chakri ( tức là vua Rama I trong tương lai ) buộc lòng chịu thỏa hiệp với những phó tướng của Nguyễn Ánh đó là Nguyễn Hữu Thùy và Hồ văn Lân và nhận được lại một cây gươm và một lá cờ để tỏ lòng sự ủng hộ của nhà Nguyễn chống lại Taksin. Được về kịp lúc cuộc thay máu chính quyền chống Taksin và có công trong việc dẹp phiến loạn, tướng Thái Chaophraya Mahakasatsuk ( hay Chakri ) trở thành từ đó là vua Rama I và người lập triều đại Chakri. Việc đăng quang của Chakri kết thúc triều đại Thonburi và sửa chữa thay thế từ nay bởi một triều đại mới với việc dời đô về Vọng Các ( Bangkok ). Chính ở nơi nầy vua Rama I nỗ lực hồi sinh lại phong thái Ayutthaya qua hoàng cung của ông ở Bangkok. Sự dời đô không có mang lại sự thay đổi trong thẩm mỹ và nghệ thuật của người dân Thái. Rama I chỉ chăm sóc đến khu công trình dở dang của Taksin Đại Đế trong việc bành trướng ảnh hướng về phía đông. Ông không ngần ngại trợ tiếp hoàng tử Nguyễn Ánh trong cuộc chống chọi lại nhà Tây Sơn qua một cuộc viễn chinh quân sự chiến lược ở trên sông Rạch Gầm – Xoài Mút trong tỉnh Tiền Giang thời nay nhưng trọn vẹn thất bại và bị tàn phá bởi kế hoạch thần tốc của người anh hùng áo vải Việtnam Nguyễn Huệ. Từ 50 vạn binh Xiêm La phối hợp với quân của nhà Nguyễn và 300 thuyền khởi đầu, chỉ còn lại có 2000 quân Xiêm La tẩu thoát mượn đường Cao Miên để trở về Thailand .
Lợi dụng sự thiếu hiểu biết về vị trí và sự nhìn nhận thấp của quân địch, Nguyễn Huệ tránh va chạm trực diện ở Sa Đéc và thành công xuất sắc trong việc làm thất bại sự xâm lấn của người Xiêm La trên kênh Rạch Gầm – Xoài Mút gần ở Mỹ Tho. Nguyễn Huệ cần một cuộc thắng lợi thần tốc vì ông dư biết chúa Trịnh ở Bắc Việt hoàn toàn có thể tận dụng thời cơ để lấn chiếm Qui Nhơn ở miền trung Việtnam .
Bị săn đuổi như con thú và chìm trong vực thẳm của sự phiền muộn, Nguyễn Ánh buộc lòng phải lưu vong một thời hạn ngắn ( từ năm 1785 đến 1787 ) ở Bangkok cùng những cận thần thân tín và 200 quân lính. Sau đó có 5000 vệ binh của Nguyễn Huỳnh Đức sang Xứ sở nụ cười Thái Lan theo ông. Theo giáo sư người Việt Bùi Quang Tùng ( 1 ) thì có rất nhiều người tỵ nạn chọn ở lại Xiêm La về sau và kết hôn cùng người dân Thái .

Chính sách giao hảo với Việt Nam

Sự hiếu khách mà vua Rama I dành cho Nguyễn Ánh sau này sẽ là cơ sở cho việc tăng trưởng mối quan hệ tương lai giữa hai nước. Không lạ gì với cách cư xử chu đáo của Nguyễn Ánh trong việc tìm kiếm một giải pháp thích hợp để quản lý sự đô hộ ở Lào và Cao Miên với người Thái. Theo nhà nghiên cứu Vietnam Nguyễn Thế Anh, những vương quốc này được xem vào thời gian đó là những đứa trẻ được hai nước Xiêm La và Nước Ta cùng nhau nuôi dưỡng, Xiêm La thì đóng thường ngày vai trò người cha còn thương hiệu của mẹ thì dành cho Viêt Nam. Sự nhờ vào này được biết đến trong tiếng Thái dưới tên là « tuy nhiên faifa ». Theo nguồn tin của Xiêm La, Nguyễn Ánh đã gửi cây bạc và vàng từ Gia Định đến Vọng Các 6 lần, đây là một tín hiệu bày tỏ sự trung thành với chủ của Nguyễn Ánh vào giữa năm 1788 và năm 1801. ( 2 ) .
Trong một lá thư gửi đến vua Rama I trước khi quay trở lại Gia Định, Nguyễn Ánh đã đồng ý chấp thuận đặt dưới quyền bảo lãnh của Xiêm La trong trường hợp ông thành công xuất sắc trong việc Phục hồi quyền lực tối cao. Đại Nam ( tên cũ của Nước Ta ) có đồng ý trở thành vương quốc theo độ hình mandala không ? Có 1 số ít nguyên do để bác bỏ giả thuyết này. Đầu tiên Đại Nam không chịu tác động ảnh hưởng của Phật giáo Nguyên thủy và cũng không có môt nền văn hóa truyền thống Ấn Độ như hai nước Cao Miên và Lào vì tôn giáo đóng một vai trò rất quan trọng trong độ hình mandala được định nghĩa bởi nhà nghiên cứu O. Wolter. Xiêm La nỗ lực bành trướng tác động ảnh hưởng và thống trị ở những khu vực mà người Thái được gia nhập không ít và nơi mà văn hóa truyền thống Ấn Độ hóa được trông thấy rõ ràng .
Đây không phải là trường hợp ở Nước Ta. Chakri và người nhiệm kỳ trước đó Taksin đã thất bại trong việc tiếp cận ở Nam Kỳ, một vùng đất mới nên có rất nhiều người dân Việt cư trú với nền văn hoá khác nhau. Chế độ chư hầu có vẻ như không hề. Chúng ta không khi nào biết được thực sự nhưng tất cả chúng ta hoàn toàn có thể dựa vào thực tiễn mà để nhận ra những ân huệ của Rama I. Nguyễn Ánh hoàn toàn có thể có một thái độ dễ hiểu này, rất tương thích với tính tình của ông và đặc biệt quan trọng nhất là với ý thức Nho giáo thì việc phản bội không khi nào có ở nơi ông. Chúng ta tìm thấy ở Nguyễn Ánh sự biết ơn và lòng nhân từ mà tất cả chúng ta không hề phủ nhận sau này với Pigneau de Béhaine ( Cha Cà ). Ông nầy đã dành rất nhiều nỗ lực để thuyết phục Nguyễn Ánh theo đạo Công giáo .
Dưới triều đại của ông, không có sự bắt bớ người Công giáo, hoàn toàn có thể xem đây là sự biết ơn của ông với Pigneau de Béhaine. Từ quan điểm này, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy ở nơi ông nguyên tắc nhân đạo ( đạo làm người ) bằng cách tôn vinh cả lòng biết ơn so với những người đã bảo vệ ông trong suốt 25 năm thăng trầm và trả thù những kẻ đã giết hại toàn bộ người thân trong gia đình và mái ấm gia đình của ông. ( thù phải trả, nợ phải đền )
Vào thời gian lên ngôi vào năm 1803 tại Huế, Nguyễn Ánh đã nhận được vương miện do vua Rama I cung ứng nhưng ông đã trả lại cho ông nầy ngay lập tức vì ông không gật đầu được coi là chư hầu của vua và nhận được thương hiệu mà vua Xiêm Rama I thường quen ban cho những chư hầu của mình. Thái độ này đi ngược lại với lời buộc tội mà người ta vẫn có về Nguyễn Ánh. Đối với một số ít nhà sử học Nước Ta, Nguyễn Ánh là kẻ phản bội vì ông ta cho người quốc tế có thời cơ để chiếm Nước Ta. Người ta thường dùng cụm từ tiếng Việt « Đem rắn cắn gà nhà » với Nguyễn Ánh. Thật không công minh khi gọi ông là kẻ phản quốc vì trong toàn cảnh khó khăn vất vả mà ông có, không có nguyên do nào mà không hành vi như ông khi ông ở trong vực thẳm vô vọng. Có lẽ là thành ngữ sau đây « Tương kế tựu kế » tương thích với ông ta hơn mặc dầu có rủi ro tiềm ẩn trở thành con cờ của người quốc tế. Cũng nên nhớ rằng nhà Tây Sơn đã có thời cơ gửi một sứ giả đến gặp vua Rama I vào năm 1789 với ý đồ ( Điêu hổ ly sơn ) nhầm để chóng lại Nguyễn Ánh nhưng nỗ lực này là vô ích vì Rama I tôi phủ nhận ngay. ( 3 )
Là người mưu trí, can đảm và mạnh mẽ và nhẫn nhục với hình ảnh của vị vua Cẫu Tiển của thời Xuân Thu, ông ta dư biết hậu quả của những hành vi của mình. Không chỉ có vua Gia Long mà thôi còn có hàng ngàn người đã chấp thuận đồng ý theo ông sang Xứ sở nụ cười Thái Lan và nhận nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề này là đưa người quốc tế vào quốc gia để chống lại nhà Tây Sơn. Có phải toàn bộ họ đều là kẻ phản bội ? Đó là một câu hỏi hóc búa mà rất khó để đưa ra một câu vấn đáp chứng minh và khẳng định và một sự lên án hấp tấp vội vàng mà không có trước đó sự công minh và không nên bị thuyết phục bởi những quan điểm ​ ​ đảng phái chính trị khi tất cả chúng ta biết rằng Nguyễn Huệ luôn luôn là người anh hùng được người dân Việt ngưỡng mộ nhất nhờ thiên tài quân sự chiến lược của ông. Thất vọng trước sự phủ nhận của Gia Long, vua Rama I, không có tỏ ra tín hiệu oán giận nhưng ông ta đã nhận thấy sự biện minh nầy trong sự độc lạ về văn hóa truyền thống. Chúng ta tìm thấy ở vua Rama I không riêng gì sự khôn ngoan mà còn có cả sự hiểu biết. Bây giờ vua Rama I muốn được đối xử như một người bình đẳng với Nguyễn Ánh. Sự đối xử bình đẳng này hoàn toàn có thể được hiểu là mối quan hệ song phương « độc quyền » giữa người anh cả và người em trẻ với sự tôn trọng lẫn nhau. Mỗi người nên biết rằng người nầy rất cần người kia dù đây chỉ là một liên minh thực trạng. Các vương quốc của họ bị theo dõi bởi những quân địch ghê gớm đó là Miến Điện và Trung Quốc .
Mối quan hệ độc quyền của họ không phai nhạt theo thời hạn khi Rama I đem lòng yêu dấu chị gái của Nguyễn Ánh trong thời hạn đó. Chúng ta không biết bà nầy trở thành như thế nào về sau là vợ hoặc là cung tần của vua Rama I. Trái lại, có một bài thơ tình mà vua Rama I dành riêng cho bà và bài nầy vẫn được liên tục hát vào những năm 1970 trong cuộc diễn hành hàng năm của những chiếc thuyền hoàng gia. Về phần Nguyễn Ánh ( hay Gia Long ), trong thời hạn trị vì, ông đã tránh cạnh tranh đối đầu với Vương Quốc của nụ cười về mặt quân sự chiến lược với những yếu tố gai góc của hai nước Cao Miên và Lào. Trước khi qua đời, Gia Long đã không ngừng nhắc nhở người tiếp sau, vua Minh Mạng để duy trì tình bạn này mà ông đã xây dựng với vua Rama I và coi Xiêm là một liên minh đáng kính nể trên bán đảo Đông Dương ( 4 ). Điều này sau đó được chứng tỏ qua việc vua Minh Mạng khước từ tiến công Xiêm La theo lời nhu yếu của người Miến Điện .
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Anh, ở Khu vực Đông Nam Á, trong số hai mươi vương quốc vào lúc 1400, chỉ còn có ba vương quốc thành công xuất sắc được xem vào đầu thế kỷ XIX là những cường quốc ở khu vực trong đó có Xiêm La và Đại Việt, một nước khởi đầu hành trình dài về phía Đông và một nước về phía Nam để gây thiệt hại cho những vương quốc bị ảnh hưởng tác động Ấn Độ giáo ( Lào, Cao Miên, Chămpa ). Sư xung đột quyền lợi này ngày càng ngày càng tăng với sự qua đời của Rama I và Nguyễn Ánh. Những người kế vị của họ ( Minh Mạng, Thiệu Trị ở phía Nước Ta và Rama III ở phía Xiêm La ) đã bị vướng vào yếu tố kế vị của những vị vua Cao Miên đã không ngừng chiến đấu lẫn nhau và nhu yếu sự trợ giúp và bảo vệ của Viet Nam và Xiêm La. Sau đó, được hướng dẫn bởi chủ trương của chủ nghĩa thực dân và thôn tính khiến hai nước phải cạnh tranh đối đầu hai lần về mặt quân sự chiến lược vào năm 1833 và năm 1841 ở chủ quyền lãnh thổ Cao Miên và Nước Ta và tìm thấy mỗi lần sau cuộc cạnh tranh đối đầu một thỏa hiệp có lợi cho hai nước và gây bất lợi cho những nước bảo lãnh của họ. Sự liên minh thực trạng không còn được xem xét đến. Sự cạnh tranh đối đầu càng ngày bộc lộ rõ ràng hơn giữa hai vương quốc đối thủ cạnh tranh Đại Nam và Xiêm La, tạo ra giờ đây một khoảng cách cho việc giao hảo và liên minh nào hoàn toàn có thể. Ngay cả chủ trương của hai nước cũng khá khác nhau, một nước theo quy mô Trung Quốc để tránh tiếp xúc với thực dân phương Tây còn một nước thì theo quy mô Nhật Bản để ủng hộ việc Open biên giới. Thủ đô Nam Vang của Cao Miên đã bị quân đội Nước Ta của tướng Trương Minh Giảng chiếm đóng một thời trong khi đó những vùng ở phiá Tây Cao Miên ( Xiêm Riệp, Battambang, Sisophon ) đều nằm trong tay xứ sở của những nụ cười thân thiện. Theo nhà sử học người Pháp Philippe Conrad, nhà vua Cao Miên được coi là một thống đốc thông thường của vua Xiêm La. Các tín hiệu hoàng gia như kiếm vàng, ngọc ấn đã bị tịch thu và giữ cất tại Vọng Các. Sự Open của người Pháp ở Đông Dương kết thúc quyền bá chủ của hai nước so với Cao Miên và Lào. Sự đô hộ nầy giúp người Cao Miên và Lào tịch thu một phần chủ quyền lãnh thổ của họ trong tay của người Việt và người Thái. Nước Đại Nam của Hoàng đế Tự Đức phải đương đầu với chính quyền sở tại thực dân Pháp đã sáp nhập sáu tỉnh Nam Bộ ( Nam Kỳ ) .
Nhờ sự sáng suốt của những vị vua Xiêm La ( nhất là Chulalongkorn hoặc Rama V ), người Thái dựa vào chủ trương cạnh tranh đối đầu giữa người Anh và người Pháp, mà cố gắng nỗ lực giữ độc lập với cái giá phải trả là sự nhượng bộ chủ quyền lãnh thổ của họ ( những chủ quyền lãnh thổ Miến Điện và Mã Lai mà họ chiếm đóng trả lại cho người Anh và Lào và Cao Miên thì nhường lại cho người Pháp ). Họ đã chọn chủ trương đối ngoại mềm dẽo ( chủ trương cây sậy ) như cây sậy thích nghi với gió. Không phải sự ngẫu nhiên khi thấy sự liên minh thiêng liêng của ba hoàng tử Xứ sở nụ cười Thái Lan ở thời kỳ khởi đầu thành hình vương quốc Xứ sở nụ cười Thái Lan vào năm 1287 và sự phục tùng ngoan ngoãn của họ trước đoàn quân Trung-Mông của Hốt Tất Liệt ( Kubilai Khan ) .
Chính chủ trương tổng hợp thích ứng này được cho phép họ tránh được những cuộc cuộc chiến tranh thuộc địa, luôn sát cánh với những kẻ thắng lợi và được sống sót cho đến ngày này như một vương quốc hưng thịnh mặc dầu đã thành hình muộn ở lục địa Khu vực Đông Nam Á. ( chỉ có từ đầu thế kỷ 14 )

Tài liệu tham khảo

The Thai in the North-West of Vietnam. Nhà Xuất Bản Thông Tấn .
La première conquête chinoise des pays annamites. Léon Aurousseau. BEFEO Année 1923. Volume 23 N ° 1. p136-264
Cổ sử cá vương quốc Ấn Độ hóa ở Viễn Đông. G. E. Coedès. Nhà xuất bản Thế Giới 2011 .
La féodalité en Asie du Sud Est, Nguyễn Thế Anh. Paris, PUF, 1998, pp. 683 – 714
La conquête de la Cochinchine par les Nguyễn et le rôle des émigrés chinois. Paul Boudet. BEFEO, Tome 42, 1942, pp 115 – 132
Contribution à l’étude des colonies vietnamiennes en Thailande. Bùi Quang Tung
Guerres et paix en Asie du Sud Est. Nguyễn Thế Anh – Alain Forest. Collection Recherches asiatiques dirigées par A. Forest. Editeur L’Harmattan .
Thailand and the Southeast Asian networks of the Vietnamese Revolution, 1885 – 1954. Christpher E. Goscha

Nguồn bài đăng

Chia sẻ:

Thích bài này:

Thích

Đang tải …