Lịch sử ra đời và phát triển máy vi tính

Lịch sử ra đời và phát triển máy vi tính

Người đầu tiên sản xuất được một chiếc máy tính hoạt động giải trí được là nhà khoa học Pháp Pascal ( 1623 – 1662 ). Tên của ông đã được đặt cho một ngôn ngừ lập trình – ngôn từ Pascal. Chiếc máy tính này được sản xuất năm 1642 khi ông mới 19 tuổi nhằm mục đích giúp bố mình – một nhân viên cấp dưới thuế của Pháp. Chiếc máy trọn vẹn là cơ khí, sử dụng những bánh xe răng cưa, dùng sức người để hoàn toàn có thể quản lý và vận hành – quay tay. Máy tính của Pascal chỉ làm được những phép tính cộng, trừ. Ba mươi năm sau, nhà bác học người Đức là Leibniz đã sản xuất thành công xuất sắc chiếc máy tính cơ khí khác, ngoài hai phép tính cộng, trừ nó hoàn toàn có thể triển khai được cả phép nhân và chia .

Chiếc máy tính đầu tiên có diện tích khá lớn

Năm 1943, nhà khoa học người Mĩ là Mau-chlây đã sản xuất ra chiếc máy tính điện tử đầu tiên có tên là ENIAC gồm 18.000 bóng đèn điện tử, nặng tới 30 tấn, tiêu thụ hiệu suất điện là 140K. W. Nhưng chỉ đến năm 1948, người ta phát minh ra transitor ( một linh phụ kiện hòn đảo trạng thái và khuếch đại ) đã thay thế sửa chữa cho những đèn điện tử cồng kềnh và tốn điện, làm cho chiếc máy tính trở nên gọn nhẹ hơn nhiều. Trong khoảng chừng 10 năm sau đó, transitor đã làm nên một cuộc cách mạng trong nghành máy tính .

Cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỉ XX đã chế tạo được mạch tích hợp (một chip sản xuất từ các vật liệu bán dẫn, có thể sao đúng chức năng cùa một transitor và các linh kiện điện tử khác). Các mạch tích hợp đầu tiên này mới chi có thê chứa dăm ba phân tử mạch, nhưng nhờ đó người ta có thê chê tạo ra các máy tính nhỏ gọn hơn.

Vào khoảng năm 1980, công nghệ vi điện tử phát triển mạnh và đã có thể chế tạo các mạch tích hợp ở mức độ rất cao, trong một con chip có thế chứa tới hàng trăm, hàng nghìn, thậm chí hàng triệu transitor nhờ đó máy tính ngày càng nhò hơn, chạy nhanh hơn và rẻ hơn. Hiện nay, người ta đã có thể chế tạo được mười sáu triệu phần tử trên một con chip nhò đến mức cỏ thể đặt trên đầu ngón tay, nhờ vậy máy tính có tốc độ xử lí nhanh.

Tới đây những con chip làm từ tinh thể gallium arsenide sẽ xuất hiện trên quy mô thương mại có vận tốc xử lí cao gấp 5 – 7 lần so với con chip làm từ tinh thể silic như lúc bấy giờ .