NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM – Trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm

 ĐỀ TÀI NGƯỜI NÔNG DÂN TRƯỚC CÁCH MẠNG

Văn học Nước Ta nửa đầu thế kỷ XX đã sinh ra những tác giả và tác phẩm để đời. Đặc biệt trong văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 ai đọc rồi thì không hề quên được, nó cứ ám ảnh đeo đuổi ta mãi. Mặc dù hình ảnh người nông dân bước vào văn học từ những câu ca xưa, từ những áng văn cổ xưa nhưng đến với dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, ta gặp những chị Dâu, anh Dậu, cái Tí, cái Bần, Chí Phèo, Thị Nở, lão Hạc, anh Pha …. Họ đến và họ không ra đi, họ bắt tay, xót xa, cay đắng mãi với cuộc sống họ. Họ bắt ta phải ngẫm nghĩ mãi về ánh sáng lương tâm, lương tri trong con người họ về sự cùng cực để bức ra đời sống ngột ngạt ấy của họ .
Riêng mảng đề tài về người nông dân, tất cả chúng ta phải xếp lên nhóm đầu Lão Hạc, Chí Phèo của Nam Cao và Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Các tác phẩm tuy chỉ là những truyện ngắn nhưng sức khái quát của chúng không hề nhỏ. Đọc tác phẩm, người ta thấy cả không khí ngột ngạt mà người nông dân Nước Ta trước Cách Mạng tháng Tám phải chịu đựng. Và ở giữa cái guồng quay tàn tệ ấy, có những con người, những thân phận đang cố chới với thoát khỏi dòng đời một cách đầy vô vọng .

Với Tắt đèn và Lão hạc, cả Ngô Tất Tố và Nam Cao đều trở về với nông thôn. Nhưng nếu như người ta cứ tưởng nông thôn Việt Nam từ xưa đến nay yên bình sau những lũy tre làng thì hình ảnh cái vùng quê kiểu ấy biến mất hoàn toàn trên những trang văn của Ngô Tất Tố lẫn Nam Cao. Ở Tắt đèn và Lão Hạc, sau cái cổng làng đầy rêu mốc là một nông thôn dữ dội như một bãi chiến trường và kỳ thực ở đó người nông dân dù muốn hay không cũng đang bị biến thành những “chiến binh số phận”.

Chỉ với mấy chục trang văn, hai tác giả đã cho bạn đọc một tưởng tượng khá toàn vẹn về người nông dân Nước Ta trước Cách Mạng. Đó là những con người đang dần nghẹn thở vì sự bóc lột của thực dân và phong kiến theo mọi cách khác nhau. Cuộc sống của họ tủi nhục, đau buồn khiến họ lúc nào cũng hoàn toàn có thể nghĩ cái chết có khi còn thoải mái và dễ chịu hơn nhiều .
Ta hãy sống với cuộc sống của Lão Hạc. Một lão nông dân nghèo, chỉ cần nghe qua tiểu sử cũng đủ thấy bao điều xấu số. Ta thương cảm và xót xa cho số phận của người nông dân với đời sống mòn mỏi trong chờ đón và kỳ vọng mong manh mà đời sống đơn độc gặm nhấm tâm hồn và thể xác già nua của lão Hạc. Vợ lão chết sớm để lại cho lão một cậu con trai với mấy sào vườn – thành quả bòn mót suốt cuộc sống của người đàn bà xấu số. Nhưng có vẻ như như nhà lão Hạc còn khá khẩm hơn nhiều mái ấm gia đình khác. Mọi chuyện chỉ phát sinh khi con lão đến tuổi lập mái ấm gia đình. Nhà gái thách cưới cao, nhà lão thì nghèo quá. Kết quả là thằng con lão đành nhìn cô tình nhân lấy chồng sang cửa giàu hơn. Nó quẫn chí, ngay mấy hôm sau xin đi đồn điền. Lão Hạc đau lòng lắm nhưng toàn bộ cũng vì nghèo nên đành ngậm đắng nuốt cay. Con lão bỏ đi, lão còn con chó với mảnh vườn nhưng cái vườn của lão khi nào cũng bị người ta dòm ngó đòi cướp mất. Lại thêm làng mất vê sợi, lão lại ốm đau luôn. Trăm cái xấu số, trăm cái lo ngại đổ xuống cái túi đang dần nhẵn thín của lão nông nghèo, lão phải sống đơn độc buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có “ cậu Vàng ” làm bạn. “ Vàng ” là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trò chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng, lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng : “ Mặt lão đùng một cái co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít … ”. Lão khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xonglão không thể nào chống lại, lão đành đồng ý “ chết mòn ” rồi “ chết hẳn ” trong đau đớn, xót xa. Một cái chết đầy thảm kịch. Cuối cùng lão phải kết liễu cuộc sống bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và kinh hoàng, lão “ vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần rườm rà, lão tru tréo, bọt mép sùi ra … ”. Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra
Chị Dậu trong “ Tắt đèn ” của Ngô Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu vượt trội. Chị Dậu đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào mà vẫn “ cơm không đủ no, áo không đủ mặc ”. Gia đình chị đã “ lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh ”. Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng biết bao tai hoạ … Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà không có một hạt cơm nào vào bụng. Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh “ nửa đêm thuế thúc trống dồn ” không có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng không có, kẻ nhà giàu địa chủ thì đòi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé nhỏ mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó hoàn toàn có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý. Cái cảnh chị nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý chấp thuận cho chị dẫn cái Tý sang nhà Nghị Quế làm người đọc không cầm lòng được. Cuộc đời chị xấu số này lại tiếp nối đuôi nhau khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng nỗ lực sống những ngày bình yên bên người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng tận dụng thuế má muốn đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái. Người đã chết, đã đi vào cõi hư vô, còn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật quá bất công. Rồi chị còn phải tận mắt chứng kiến cảnh chổng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném vào nhà, chị chăm nom cho anh chưa kịp hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong thực trạng ấy không hề chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén lâu nay đã thôi thúc chị hành vi. Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả kinh khủng sau những lời van xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi tác dụng là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để quan tư phủ xử tội vì đã chống lại “ người nhà nước ”. Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu cũng như những tâm ý uất ức trào dâng tự phát biểu lộ thành hành vi phản kháng của chị chính là hình ảnh chân thực về đời sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám
Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ xấu số là thế nhưng vượt lên trên những đau khổ xấu số đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ vẫn ngời sáng trong đêm hôm khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu đời sống .
Ngay trong thực trạng xấu số khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản “ Tức nước vỡ bờ ” hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả kinh khủng tên cai lệ và người nhà lý trưởng để cứu chồng là biểu lộ thâm thúy nhất tình cảm yêu thương quyết tử vì chồng con của chị Dậu. Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những lời nói tự nhiên như tấm lòng chân thành của chị so với chồng Thầy em cố dậy húp ít cháo cho đỡ mệt … ” đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lòng thơm thảo, vẻ đẹp êm ả dịu dàng dịu dàng êm ả với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự quy tụ những vẻ dẹp tự nhiên của người phụ nữ. Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca .
Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là tự phát nhưng tâm lý đầy ý thức “ Thà ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được ”. Ý thức đó phải chăng là ý thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố có vẻ như đang “ xui người nông dân làm mưa làm gió ” ( theo nhận xét của Nguyễn Tuân ) để nhằm mục đích phản ánh quy luật : có áp bức có đấu tranh, “ Tức nước vỡ bờ ”. Tôi nhớ mãi những ánh mắt, là nghị lực, lả sức sống của chị. Ánh mắt sáng rực nhân cách ấy rọi chiếu như tia đèn pha, có vẻ như muốn thiêu đốt những rác rưởi trong đình làng, trong xã hội. Ánh mắt đầy sức mạnh theo sát ta trên chặng đường đời, góp phần đốt trụi những ý nghĩ thấp hèn, những lời van vĩ, dựng ta dậy, xốc ta đi. Giữa bãi bùn lầy nhơ nhuốc của lòng chảo ” tắt đèn ”, chị là thứ “ hương sen dã ngoại ”. Một mùi hương không hề lẫn, một mùi hương thoang thoảng thôi nhưng không khi nào hết. Cuối tác phẩm, chị Dậu rứt ra, lao vào đêm đen. Nhưng chính chị, bằng cuộc sống bị dồn đến chân tường ấy vẫn gieo trong ta một niềm tin mãnh liệt, dù hiện thực có nghiệt ngã hơn thế nữa thì chị Dậu vẫn đẹp, vẫn trong sáng. Niềm tin ấy hoà trong máu ta đốt thành niềm yêu say đời sống
Nếu như chị Dậu tiêu biểu vượt trội cho người phụ nữ nông dân trong những vẻ đẹp nhân ái vị tha và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách hùng vĩ đáng nể trọng của người nông dần già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết. Đến giọt nước mắt cũng phải dồn hai gò má lại mà “ ép ” ra. Có những lúc đói, đào được củ gì ăn củ nấy nhưng lão vẫn không bán một tấc đất, một mảnh vườn của con. Giữa lúc con người sống với nhau như quái vật ấy, cái tình của lão với con chó vàng mới đẹp làm thế nào. Đôi mắt van vỉ của con chó là cái tình của lão Hạc đấy, nói với lão Hạc là nói với tất cả chúng ta, và cái đẹp nhất, cái in đậm nhất trong ta chính là cái tình ấy. Có một thời tôi không dám đọc Lão Hạc vì nó kinh khủng quá, vì cái chết của lão ghê gớm quá. Nhưng cái tình, cái đẹp trong câu truyện ấy cũng nhiều lắm. Cái ân tình trĩu nặng như chính mảnh đất lão đã sống, đã chết để gìn giữ. Tôi muốn giữ chặt lấy thân hình lão đang cào cấu, nắn thẳng lại những cánh tay, bàn chân co quắp, và tôi thấy rõ ràng từ đôi mắt lão ứa ra những giọt nước mắt khan hiếm, tôi thấy đôi tay lão từ từ nhấc dây vuốt ve con chó vàng, tôi thấy miệng lão mấp máy dặn dò ông giáo canh giữ mảnh vườn. Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt .
Nếu nói lão Hạc chết vì đói nghèo quả là trọn vẹn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào “ luồng chưa ai khơi ” trong hiện thực lúc bấy giờ là ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm, tình yêu thương nhân ái, đức quyết tử cao quý của người cha trong thực trạng vật lộn với cái đói. Lão Hạc chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi miền cực lạc xa xôi còn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có những hành vi đầy tự trọng ấy, lão không muôn liên luỵ đến ai mà chỉ bí mật chịu khổ một mình .

Là người rất đôn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vò, cắn dứt chỉ vì không thuỷ chung với một con chó. Lòng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết nhường nào.

Những đức tính khiến tất cả chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lòng yêu thương con bát ngát, đức quyết tử cao quý. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hoàng hôn buông xuống, tổng thể chỉ để tích góp cho con ít tiền. Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng còn gì, thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng xu tiền nào dành cho con. Lão nhịn ăn, nhịn mặc, một lòng vì con : để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh vườn cho con. Cái chết kinh hoàng và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những tích tắc sau cuối của cuộc sống, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu .
Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao ! Họ đã cho tất cả chúng ta hiểu rõ cái đời sống cùng quẫn, bi thảm của người nông dân, làm tất cả chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất cảo quý, đẹp tươi và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào đời sống của người nông dân ngày này ta càng xót xa cho cha ông thuở trước và thêm tin yêu đời sống mới .

Còn Chí Phèo, cái anh Chí Phèo ấy đã găm lại trong ta bởi cái kì dị, quái gở của cả hình thức lẫn cuộc đời và con người. Những cái đó, làm cho tôi, lần đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm, cảm thấy sợ hãi. Sợ hãi cái con quỷ dữ ấy, sợ hãi cái thằng người say triền miên, sợ hãi, ám ảnh cái bóng Chí Phèo vật vờ dưới chân hắn trong đêm trăng. Tưởng như ngửi thấy mùi rượu, thấy được máu đang tưa ra trên khuôn mặt “vằn ngang vằn dọc”không tuổi ấy. Rồi cái sợ ấy ngấm mãi vào người và dần dần, trở thành sự chà xát ghê gớm. Chua xót lắm chứ, cái chua xót lớn nhất – Chí Phèo không được sống như một con người. Chị Dậu khổ, nhưng chị là một con người, là người mẹ, là người vợ, Lão Hạc khổ nhưng lão vẫn là một người bố và bên cạnh lão còn có ông giáo sẻ chia. Còn Chí Phèo, hãy thử hỏi xem có nỗi đau đớn nào lớn hơn thế nữa! Không có gì khốn nạn và cùng cực hơn anh nông dân Chí Phèo ấy. Có thể nói cuộc đời nhân vật Chí Phèo gói gọn trong hai chữ “bất hạnh” và một con số không tròn trĩnh. Cho đến bao giờ, tiếng thét, tiếng kêu của anh ta mới nguôi đi trong tôi “tao muốn làm người lương thiện”. “ai cho tao lương thiện?” Không, tiếng kêu đó sẽ chẳng bao giờ dịu đi, nó vật vã cái phần nhân bản cao quý của con người, nó giày vò cái phần lương tri, lương năng trong con người. Nó không còn là khổ, là đau nữa, nó sâu, đau tận trong tâm can ta. Khi gấp trang sách lại ta vẫn luôn ám ảnh bời cái hình dáng khật khưỡng của một gã say rượu với cái vỏ chai trong tay vừa đi vừa chửi bới của Chí Phèo.
Xã hội không cho Chí con đường sống. Nhát dao của Chí Phèo cho đến bây giờ vẫn còn đau trong tôi. Cái nhát dao kết liễu cuộc đời anh Chí và đó cũng là cái nhát dao khoét sâu trong ta. Nam Cao đã để cho lão Hạc cào cấu ta bởi cơn giãy chết điên dại của lão thì đến Chí Phèo lại là cảnh dãy dụa trên vũng máu và miệng “ngáp ngáp” như đang muốn nói một điều gì đấy với mọi người. Sao họ khổ đến thế, đến cái chết cũng cứ phải khổ, cũng cứ phải vật vã. Cái chết đau đớn, cái chết rùng rợn, bao nhiêu cái khắc nghiệt của cuộc sống đã dồn cả lên đôi vai gầy gò ốm yếu của họ và cho đến lúc chết họ vẫn cứ vẫn còn phải khổ.Cuộc sống của những người nông dân ấy tăm tối đớn đau, làm gì có cảnh

“ Trên đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay lên
Làm giật mình những cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa ” .

“Cô nàng yếm thắm” ấy chợt đến rồi chợt đi, trong ta những chị Dậu, Chí Phèo thì sống mãi. Ôi những người nông dân thưở ấy càng nghĩ lại càng thương, càng đau. Càng sung sướng trong cuộc sống “Lúa mượt đồng ấm áp làng quê” lại càng xót xa cho họ.

Hình ảnh của những người nông dân trước cách mạng tháng tám không chỉ găm lại trong ta bởi cái khổ, họ còn đọng lại trong ta bởi ánh sáng lương tâm, lương tri trong họ, bởi sức sống ngầm trong con người họ. Dù cuộc sống có cay cực, bất công, dù đời sống quá tối tăm, Có phải vì Chí Phèo được miêu tả như một con quỷ, một con vật không tuổi nên cái phần “ người ” trong hắn làm ta bàng hoàng, chỉ một bát cháo hành của Thị Nở, một “ đặc ân ” mà cuộc sống ban cho hắn cũng đủ thức dậy cái phần lương tâm lương tri cái thực chất con người, trong lúc tưởng như nó đã huỷ diệt trong cái vỏ lạ mắt, gớm ghiếc. Không, nó vẫn sống và sống mãnh liệt. Tôi nhớ mãi cái buổi sáng Chí Phèo tỉnh dậy. Lần tiên phong hắn mới lắng nghe âm thanh đời sống, tâm hồn rung lên những nhịp rung mới lạ. Chí nhớ lại có một thời Chí cũng có những tham vọng nho nhỏ, có một thời Chí cũng là người là trong Chí khát khao một đời sống lương thiện, muốn hoà mình, gia nhập cái xã hội bình dị cúa những người dân. Cái phần người nhỏ bé nhưng kì diệu ấy có sức đốt nóng ghê gớm. Cái ấn tượng ấy không mất đi. Nó rỉ tai, trong tôi : Dù người ta có nói gì với bạn đi nữa thì bạn hãy tin rằng đời sống vẫn đẹp và con người vẫn đẹp. Tôi lại thấy thoang thoảng đâu đây mùi cháo hành thơm nồng, thấy rạo rực như được sống cái buổi sáng mà Chí Phèo tỉnh giấc, có tiếng chân, có tiếng người đi chợ về hỏi nhau …
Trong đêm hôm một tia sáng cũng đủ rạch màn đêm, trong khổ đau, người nông dân vẫn giữ cái phần “ người ” đốt sáng rực cái phần “ người ” ấy. Chúng ta – người đọc – không thể nào quên được đôi mắt của chị Dậu, bát cháo hành của Thị Nở, nụ hôn đẫm nước mắt của con Tí với em nó. Những hình ảnh đó thấm mãi vị ngọt ngào trong ta .
“ Bát cơm chan đầy nước mắt ” của người nông dân xưa ấy, ta ăn và thấy nghẹn ngào, đắng chát. Cái ý nghĩ họ sống khổ cứ bám riết lấy ta, bắt ta đau và chính họ cũng đốt lên, hằn sâu trong ta những tia sáng cao đẹp của nhân phẩm. Ta sống, ta lớn lên, mang theo mãi trong mình những ấn tượng, những xúc cảm thâm thúy ấy. Và mỗi lần nghĩ về họ, những người nồng dân ấy, ta lại thấy tổng thể còn mới nguyên như lần đầu ta bước vào đêm đen “ tắt đèn ”, như lần đầu ta đến làng Vũ Đại. Và họ đứng bên nhau, hoà vào nhau, trở thành một bức tượng son sắt trong ta : Người nông dân thuở ấy .