Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.>

Lựa chọn câu để xem giải thuật nhanh hơn=> Hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ với sự chiến đấu và hi sinh sanh dũng xứng danh đi vào sử sách- Chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thô sơ nay lại hi sinh gan góc trên mặt trận để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở lại

– Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành

– Quân trang rất thô sơ : một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử dân tộc ⇒ làm rõ nét hơn sự gan góc của những người nông dân nghĩa sĩ- Tinh thần chiến đấu tuyệt vời : Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân lân mà “ mến nghĩa làm quân chiêu mộ ”=> Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa khác thường trong thái độ, chính lòng yêu nước và niềm căm thù giặc, cộng với sự hờ hững thiếu nghĩa vụ và trách nhiệm của “ quan ” đã khiến họ tự gisc, tự nguyện đứng lên chiến đấu- Nhận thức về tổ quốc : Họ không dung tha những quân địch lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến đấu một cách tự nguyện : “ nào đợi đòi ai bắt … ”+ Thái độ so với giặc : “ ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ ”, “ muốn tới ăn gan ”, “ muốn ra cắn cổ ” ⇒ Thái độ chán ghét, căm thù đến tột độ được miêu tả bằng những hình ảnh cường điệu can đảm và mạnh mẽ mà chân thực+ Vốn là những người nông dân nghèo khó không biết đến việc binh đao, họ lo ngại là chuyện thông thường=> Những người nông dân nghĩa sĩ họ chỉ là những người nghèo khó và lương thiện, chính thực trạng đã buộc họ phải đứng lên trở thành những người chiến sỹ và sau cuối là “ nghĩa sĩ ”=> Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh vấn đề việc quen ( đồng ruộng ) và chưa quen ( chiến trận, quân sự chiến lược ) của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự trái chiều tầm vóc anh hùng trong đoạn sau .- Từ nông dân nghèo khó, những dân ấp, dân lân ( những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống )

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

Người nông dân Nước Ta yêu nước chống ngoại xâm đã Open từ rất lâu, tối thiểu cũng trên mười thế kỉ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự Open vào nửa cuối thế kỉ XIX với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu. Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật và thẩm mỹ tiên phong về người nông dân nghĩa sĩ Nước Ta. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng – bi thương mà hào hùng – đúng như cuộc chiến đấu mà nhân dân Nước Ta đã triển khai suốt nửa sau thế kỉ XIX, vì đời sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình .
Tuy vậy, dù buồn thương, nhà thơ không khi nào vô vọng. Với niềm tin vào sức mạnh muôn đời của Tổ quốc, tin ở lòng yêu nước của những người dân ; dân lân bình dị và thiết tha, nhà thơ luôn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp. Non sông rồi sẽ sạch bóng quân xâm lược, mối nhục mất nước rồi sẽ được rửa sạch làu làu :
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông .
( Ngóng gió đông )
Đó là một niềm tin cảm động và can đảm và mạnh mẽ. Có lẽ trước Nguyền Đình Chiểu, chưa có một nhà thơ nào sáng tác với một ý thức rõ ràng như ông :
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà .
Cái đạo của ông không là gì khác ngoài đạo yêu nước thương dân. Đó là nguồn gốc khiến thơ văn ông có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà .
Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lí, rất sắc khi khởi đầu khúc bi ca của mình :
Hỡi ôi !
Súng giặc đất rền ;
Lòng dân trời tỏ .
Quả là, qua cuộc chiến đấu này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bán chất toàn vẹn, tấm lòng yêu nước của những người nông dân thông thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ, mới được tỏ bày cùng trời đất. Trước đây, họ vẫn sống sót, nhưng nào ai biết đến họ. Họ vẫn có đấy, sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng đời sống của họ đã từng vạt vả xiết bao :
Nhớ linh xưa :
Côi cút làm ăn ,
Toan lo nghèo khó .
Bao nhiêu lượng thông tin chúa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với tất cả chúng ta rất rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân cần Giuộc, người nông dân lục tính, cũng là người nông dân Nước Ta ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và đơn độc trong đời sống, cặm cụi, lầm lũi, lặng lẽ gập người trên những cánh đồng, oằn vai cam chịu bao nhiêu gánh nặng của đời sống, sự khắc nghiệt và những tai ương từ vạn vật thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chừng ấy lo toan khó khăn vất vả cũng đã quá đủ so với họ ; tưởng như họ, những người nông dân khó khăn vất vả ấy, chẳng còn hoàn toàn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngoài những “ toan lo nghèo khó ” vốn đã quá lớn lao ấy .
Thế mà không, quân xâm lược đã lấn chiếm quốc gia, đã đến tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy, vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mày nghìn năm xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ hoàng cung nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù giặc sục sôi vì hành vi cướp nước :
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ .
Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp : muốn tới ăn gan ;
Ngày xem ống khói chạy đen sì : muốn ra cắn cổ

        Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ: Khát vọng đánh giặc. Đó là một ước muốn hoàn toàn tự nhiên và cũng hoàn toàn tự nguyện:

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình ;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ .
Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác trọn vẹn với người nông dân chỉ trước đo không bao lâu “ Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa ” khi phải sung làm lính đi biên thủ phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chiến đấu, ấy là nét thực chất nhất trong hành vi của mọi người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự liên tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất :
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng .
Trong mọi việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi có đủ điều kiện kèm theo mới làm. Đó là chỗ thảm kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ Gần Giuộc. Bi kịch vì :
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng ,
Trông tin quan như trời hạn trông mưa .
Họ khởi đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ đã phải thực thi cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “ án binh bất động ” một cách khó hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người :
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ ,
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy … tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ … mắt chưa từng ngó
Bước vào chỗ sống chết của mặt trận mà những con người ấy chỉ mang theo những trang bị vừa đủ để làm những người cày ruộng. Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề vừa có đủ thứ “ tàu thiếc tàu đông ’ ‘, ‘ ‘ đạn nhỏ đạn to “, họ chỉ là những người nông dân không có kỹ năng và kiến thức gì vê trận mạc, chỉ có “ một manh áo vải ”, “ một ngọn tầm vông ”, chỉ có “ lưỡi dao phay ”. Cuộc chiến đấu mới chênh lệch làm thế nào ! Kết thúc cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của đời sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy, tấn thảm kịch đã đưa đến cái họa mất nước lê dài cả thế kỉ .
Nhưng chính trong cái thảm kịch ấy, bản hùng ca của đời sống đã cất lên. Hùng ca trước hết là ở sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo thất bại để thắng lợi, lấy ý thức, lao vào vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu vắng, chênh lệch của mình so với quân địch :
Chi nhọc quan quản gióng trống kì ; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không ;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có …
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ .
Thật là mừng quýnh, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như những người lính tuyệt vời dũng mãnh. Ở đây, sức mạnh ý thức đã phát huy đến mức độ tối đa và trong chừng mực nào đó, đã tỏ rõ hiệu suất cao của nó trước sức mạnh của giải pháp, của vũ khí, trang bị :
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ .
… Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma lí hồn kinh …
Trong văn chương Nước Ta, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức tranh hào hùng như vậy về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là thực chất của họ. Trong những khoảng thời gian ngắn tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu .
Quả Nguyền Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm thế nào có được sự hòa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế tưng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “ đạp rào lướt tới ”, “ xô của xang vào ”, với những “ kẻ đâm ngang, người chém ngược ”, “ bọn hè trước, lũ ó sau ” như thế dược .
Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “ Nghĩa sĩ Cần Giuộc ”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ đã sống những cuộc sống của quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vô danh. Họ không hề tìm một điều gì cho riêng mình khi chiến đấu. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đòi, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như một tiêu chuẩn chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là cái triết lí sống này :
Chết vinh hơn sống nhục .
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ
Hoàn thành bức tượng đài của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho những lời ngợi ca, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng :
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên đàn Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ
Cuộc tiến công của mấy chục nghĩa quân vào đồn cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tiến công tiên phong của quân dân Nước Ta khởi đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà những nghĩa quân đã gây cho giặc có lẽ rằng cũng không là bao nhiêu. Song, hiệu suất cao thực sự mà họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc dân tộc bản địa, bằng lòng yêu nước tha thiết và vô tư của họ, bằng niềm tin chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, sự gan góc vô điều kiện kèm theo và tuyệt vời của họ, thì to lớn vô cùng. Họ xứng danh được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành xong vẻ vang trách nhiệm của người nghệ sĩ nhân dân khi tạc nên bức tượng đài ấy .

Xem các bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Bài tham khảo số 3

Bài tham khảo số 4

Loigiaihay.com