Đôi điều về nghệ thuật múa Chèo

Nói đến nền nghệ thuật và thẩm mỹ múa truyền thống cuội nguồn của dân tộc bản địa là phải nói đến múa chèo. Khi nghiên cứu và điều tra những động tác múa chèo, người ta tìm thấy những động tác múa trên sân khấu ngày này đã được khác trên những vách đá, hang động, những phù điêu trong đình làng Nước Ta từ thuở rất rất lâu rồi. Một đặc thù nữa của múa chèo là nó mang trong mình nhiều dấu ấn của những hoạt động giải trí văn hoá dân gian làng quê như múa thiêng – lên đồng – múa đèn, múa nến, múa gậy, múa khăn, múa chạy cờ, múa quạt, w … Người diễn viên múa chèo phải “ múa ” từ bước tiến, cách đứng, khi tiếp xúc với nhân vật cùng diễn. Diễn viên chèo phải vừa múa vừa hát. Khi múa sử dụng hầu hết đôi bàn tay, cánh tay và cổ tay. Có thể nói đôi bàn tay là sự biểu lộ ngôn từ chèo điệu nghệ nhất .

Năm nhóm động tác chính của múa chèo:

  • Nhóm chạy đàn: bước đi lúc nhanh, lúc chậm, biểu hiện sự suy tư thương nhớ và nỗi buồn mênh mông.
  • Nhóm dáng hoa gồm những động tác khoan thai trang nghiêng diễn tả tình cảm tôn kính.
  • Nhóm dáng rượu bước đi trang trọng, động tác mạch lạc, kính cẩn.
  • Nhóm cướp bông là những bước nhún ngẫu hứng, tài linh hoạt của người diễn.
  • Nhóm tấu nhạc thể hiện những tiết tấu âm thanh phù hợp với nội dung thể hiện của vở diễn.

Đôi điều về nghệ thuật múa Chèo

Chèo xuất hiện từ bao giờ?

Có thuyết nói múa chèo cổ từ thế kỉ thứ X. Có quan điểm khác lại cho là khoảng chừng từ thế kỉ XVI múa chèo mới hình thành. Đi tìm từ nguyên chữ chèo, cho rằng từ chữ chèo thuyền ( hát trong khi lao động ). Cũng lại có vấn đề nói chắc rằng chèo là từ chữ trào ( trào lộng ) vì tính hài trong chèo khá đậm nét .

Điều chắc chắn là nơi cội nguồn của nghệ thuật chèo là đồng quê thôn xóm. Xưa kia có những “phường chèo” do một ông trùm cầm đầu đi diễn ở các thôn làng vào dịp mùa xuân, mùa thu là lúc nông nhàn. Những vùng chèo nòi, chèo gốc gọi là chiếng chèo như “Chiếng Đông”, “Chiếng Đoài”, “Chiếng Nam”, “Chiếng Bắc” là những chiếng chèo nổi tiếng khi xưa. Một “Chiếng chèo” chỉ gồm mươi lăm người kể cả nhạc công mà bộ gõ chiếm vị trí quan trọng. Diễn viên gồm có đào, kép, hề. Đôi khi chỉ cần một đào, một kép và một vai hề xuất sắc là đã nổi đình đám. Tính chất ước lệ trong múa chèo khá cao. Chỉ cần hai chiếc chiếu trải giữa sân đình, khán giả ngồi vây quanh là đã thành một sân khấu chèo. Tên gọi chèo sân đình chính là như vậy. Buổi diễn chèo thường mở đầu bằng điệu hát “vỡ nước” và một hồi trống rung lên, w.

Tiếng trống chèo có ma lực hấp dẫn bao thế hệ người theo dõi nông thôn. Trống đã nổi lên ở đình thì không hề ngồi yên ở nhà :

“Ăn no rồi lại năm khoèo Thấy rục trống chèo, bế bụng di xem”

“Rục” là ngón gõ điêu luyện trên mặt trống cò tác dụng kích thích giục giã lòng người.

Nghệ thuật chèo gồm có múa, hát, âm nhạc và văn học trong diễn biến ( tích trò ). Văn chèo đậm sắc tố trữ tình của ca dao tục ngữ, tiếng cười trong múa chèo thật mưu trí dân giã nhưng không kém phần trí tuệ. Đôi khi tiếng cười ra nước mắt có giá trị nhân vân rất thâm thúy .
Những vở chèo cổ Trương Viên, Kim Nham, Lưu Bình – Dương Lễ, Quan âm Thị Kính, w … đã được xếp vào vốn quý của sân khấu dân tộc bản địa truyền thống trong văn hóa truyền thống Việt .
Ngày nay, trong sự tăng trưởng ồ ạt của nhiều mô hình văn hoá, để bảo tồn và phát huy vốn cổ dân tộc bản địa, những nhà nghiên cứu, những nghệ sĩ trong làng chèo đã có những bước tiến mạnh dạn để cải cách múa chèo, đổi mới môn thẩm mỹ và nghệ thuật này để nâng cao hơn nữa giá trị chiêm ngưỡng và thưởng thức cho đại đa số người theo dõi cả thành thị và nông thôn. Những nghệ sĩ tên tuổi đã gắn bó sự nghiệp cả đời với nền nghệ thuật và thẩm mỹ chèo không hề không nhắc đến : Trần Bàng, Trần Huyện Trân, Lào Mạt, Hoàng Kiều, Hoài Giao, Việt Dung, Trùm Thịnh, Cả Tầm, Dịu Hương, vua hề Năm Ngũ, Diễm Lộc, w …