Một số kinh nghiệm rút ra trong thực hiện nhiệm vụ ưu tiên kiềm chế lạm phát

Lạm phát ở nước ta có 1 số ít đặc thù như có sự lặp đi lặp lại theo chu kỳ luân hồi từ năm 2004 đến nay, đó là cứ 1 năm tăng thấp hơn thì lại đến 2 năm tăng cao hơn ( năm 2003 tăng 3 %, thì năm 2004 tăng 9,5 %, năm 2005 tăng 8,4 % ; năm 2006 tăng 6,6 %, thì năm 2007 tăng 12,63 %, năm 2008 tăng 19,89 % ; năm 2009 tăng 6,52 %, thì năm 2010 tăng 11,75 %, năm 2011 tăng hơn 18 % ) .
Trong 11 nhóm hàng hoá, dịch vụ, thì nhóm hàng ăn và dịch vụ nhà hàng siêu thị – nhóm chiếm gần 40 % tổng giá trị sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng – tăng cao gần gấp đôi của những nhóm sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ còn lại .
Có 4 nhận xét từ những số lượng này. Lương thực – thực phẩm giá tăng cao nhất do trước kia bị những nước tăng trưởng ép giá, do nhiều nước chuyển hướng vào tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ, nay phải nhập khẩu lớn lương thực. Nước Ta xuất phát từ nông nghiệp đi lên, gần 50% số lao động làm nông, lâm nghiệp – thủy hải sản, còn hơn 1/10 dân số thuộc diện nghèo và cận nghèo với tỷ trọng tiêu dùng lương thực – thực phẩm cao hơn nhiều so với tỷ trọng chung, làm cho tâm ý lạm phát nặng nề hơn. Riêng về thực phẩm, Nước Ta chưa tự cân đối được, còn phải nhập khẩu nhiều loại với khối lượng không nhỏ, dễ gây nên sốt giá … Chênh lệch lớn về giá lương thực, thực phẩm giữa người sản xuất với người mua gom, chợ đầu mối, shop nhà hàng siêu thị, người tiêu dùng ở đầu cuối, cộng với ngân sách nguồn vào ngày càng tăng, phản ánh công tác làm việc quản trị giá chưa tốt, còn lúng túng, làm cho người sản xuất nông sản, thực phẩm dù giá tăng cao nhưng vẫn không được hưởng lợi nhiều, còn người tiêu dùng lại bị giá cao .

Lạm phát cao trong nửa đầu năm có phần do tốc độ tăng dư nợ tín dụng, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán cao trong nhiều năm trước tích lũy lại; lạm phát những tháng cuối năm được kiềm chế khi Chính phủ quyết liệt đưa các tốc độ này thấp chưa bằng một nửa các năm trước.

Lạm phát cao do tỷ suất vốn góp vốn đầu tư / GDP cao trên 40 % trong nhiều năm trước, trong đó tỷ trọng góp vốn đầu tư công lớn ; lạm phát đã được kiềm chế trong bước đầu khi tỷ suất đó giảm xuống ( còn dưới 38 % ) trên cơ sở cắt giảm góp vốn đầu tư công, những doanh nghiệp nhà nước thoái vốn dần ở những nghành nghề dịch vụ ngoài trình độ chính .
Lạm phát cao khi giá vàng, giá USD có dịch chuyển lớn ảnh hưởng tác động mạnh đến yếu tố tâm ý. Lạm phát đã chậm lại khi giá vàng, giá USD cơ bản được không thay đổi trở lại .
Từ những yếu tố trên, hoàn toàn có thể rút ra 1 số ít kinh nghiệm về kiềm chế lạm phát .

Thứ nhất, trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các mục tiêu vào lúc này, nhất là giữa mục tiêu tăng trưởng và lạm phát, thì Chính phủ đã chọn mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát, không thúc đẩy tăng trưởng bằng mọi giá. Đây là nét mới trong tư duy về kiềm chế lạm phát. Trong mục tiêu năm 2012, tăng trưởng cũng được xếp thứ 3 và cũng là tăng trưởng hợp lý- tức là tăng trưởng tương đương với năm 2011 (6%) để chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của tình hình và tập trung cho nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức 6,5%, còn mục tiêu ưu tiên vẫn là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Thứ hai, một trong những nguyên do trực tiếp làm cho lạm phát thể hiện ra là do hệ quả của việc thả lỏng chủ trương tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm trước. Vì vậy, việc quản lý chủ trương tiền tệ ngặt nghèo, thận trọng và linh động, bảo vệ tăng trưởng tổng phương tiện đi lại giao dịch thanh toán và tăng dư nợ tín dụng thanh toán hàng năm không vượt quá mức đề ra như trong Nghị quyết 11 của nhà nước. Thực hiện chủ trương tài khóa thắt chặt, giảm bội chi ngân sách, tiết kiệm chi phí chi liên tục ; giảm tỷ trọng góp vốn đầu tư công, chuyển một phần góp vốn đầu tư nhà nước sang góp vốn đầu tư từ những nguồn vốn khác, nâng cao hiệu suất cao sử dụng vốn góp vốn đầu tư nhà nước ; trấn áp ngặt nghèo hiệu suất cao góp vốn đầu tư, kinh doanh thương mại của doanh nghiệp nhà nước ; bảo vệ nợ công trong số lượng giới hạn bảo đảm an toàn .

Thứ ba, nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát ở nước ta vẫn là hiệu quả đầu tư và năng suất lao động còn thấp, là cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả. Vì vậy cần xúc tiến ngay và đẩy nhanh việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế với 3 trọng tâm theo Nghị quyết của Chính phủ (đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng thương mại).

Thứ tư, lạm phát có nguyên nhân bên ngoài do giá nguyên liệu vật tư nhập khẩu tăng cao, trong điều kiện xuất khẩu hàng hóa/GDP năm 2011 lên đến trên 82% và nhập siêu còn lớn, thì việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ để hạn chế nhập siêu; ổn định tỷ giá để hạn chế việc khuếch đại lạm phát ở trong nước là rất quan trọng.

Thứ năm, lạm phát có nguyên nhân do phải điều chỉnh tăng giá theo lộ trình một số hàng hóa và dịch vụ. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường là đúng với nền kinh tế chuyển đổi, nhưng nếu điều chỉnh dồn dập với tốc độ cao sẽ có tác động cộng hưởng làm cho lạm phát bùng lên.

Thứ sáu, lạm phát có nguyên nhân quan trọng là do tác động cộng hưởng của yếu tố tâm lý. Sự bất ổn về giá vàng, giá USD sẽ tác động lớn đến lạm phát. Vì vậy, ổn định giá vàng, tỷ giá sẽ có tác dụng quan trọng để ổn định tâm lý, làm tăng lòng tin đối với đồng tiền quốc gia, góp phần kiềm chế lạm phát.

Thứ bảy, để tránh nguy cơ vừa lạm phát cao, vừa đình trệ, cần có giải pháp trung hòa. Bảo đảm vốn cho sản xuất, ưu tiên cung ứng lượng vốn và lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh lương thực, thực phẩm, hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Đào Ngọc