Người Si La – Wikipedia tiếng Việt

Si La
Si La people.jpgNgười Si La và phục trang đặc trưng của phụ nữ
Tổng số dân
4.000 +
Khu vực có số dân đáng kể
 Lào: 3.151 @2015 [1]

Việt Nam: 909 @2019 [2]
Ngôn ngữ
Si La, Việt, Lào, khác
Tôn giáo
Tín ngưỡng dân gian/thờ cúng tổ tiên, Phật giáo, Kitô giáo

Người Si La, còn gọi là Cú Dé Xử, Khà Pé, là một dân tộc cư trú ở bắc Lào và bắc Việt Nam.

Tại Nước Ta người Si La được công nhận là một trong số 54 dân tộc tại Nước Ta, có số dân theo Điều tra dân số năm 2019 là 909 người. [ 2 ] [ 3 ]

Người Si La nói tiếng Si La, là một ngôn ngữ của thuộc ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng.

Dân số và địa phận cư trú[sửa|sửa mã nguồn]

Sắc tộc Si La hiện có khoảng chừng 709 người [ 4 ] sống đa phần tại tỉnh Lai Châu ( 530 người, khoảng chừng 75 % ), thuộc miền bắc Nước Ta. Đa số những người này sống tại hai bản Seo Hay, Sì Thâu Chải thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Ngoài ra, có khoảng chừng 1.800 người Si La sống tại Lào. Sau khi bản Sì Thâu Chải di tán do khu công trình thủy điện Lai Châu, một số ít người Si La đã di cư đến bản Nậm Sin thuộc Mường Nhé .Theo Tổng tìm hiểu dân số và nhà ở năm 2009, người Si La ở Nước Ta có dân số 709 người, xuất hiện tại 17 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Si La cư trú tập trung chuyên sâu tại những tỉnh : Lai Châu ( 530 người, chiếm 74,75 % tổng số người Si La tại Nước Ta ), Điện Biên ( 148 người, chiếm 20,87 % tổng số người Si La tại Nước Ta ), những tỉnh khác mỗi tỉnh có không quá 10 người. [ 4 ]
Người Si La nói tiếng Si La, là một ngôn từ của thuộc ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng. Tiếng Si La có quan hệ thân mật với tiếng Hà Nhì .
Người Si La sống bằng nghề trồng lúa, làm nương ngô. Họ vỡ đất ở sườn núi và bìa rừng để trồng trọt .Khoảng vài thập niên gần đây, người Si La học trồng thêm lúa nước. Mặc dầu nông nghiệp đóng vai trò chính nhưng săn bắn và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống .Nhìn chung, mức sống của người Si La còn thấp. Tình trạng thiếu ăn khá thông dụng. Bệnh thường gặp là bướu cổ và sốt rét. Do tử suất cao nên tổng dân số thấp .

Cộng đồng

Người Si La có nhiều dòng họ. Quan hệ họ hàng rất khắng khít. Trưởng tộc của một chi họ là người đàn ông cao tuổi nhất. Người này giữ vai trò chỉ huy, có nghĩa vụ và trách nhiệm tổ chức triển khai những hoạt động và sinh hoạt chung cho họ mình. Ngoài trưởng tộc, người Si La có thầy mo .

Hôn nhân

Lễ cưới của người Si La

Người Si La thực thi hôn nhân gia đình một vợ một chồng và ngoại hôn dòng họ. Con cô con cậu được phép kết hôn, nhưng phải cách ba đời. Luật tục đồng ý hôn nhân gia đình giữa con dì con già, nhưng không được cho phép ” hôn nhân gia đình nối dây “, không đồng ý ly hôn, nhưng được cho phép tái hôn so với những người góa bụa .Người Si La có hai hình thức cư trú sau khi kết hôn. Thông thường, sau lễ cưới, nàng dâu cư trú tại nhà chồng. Nhưng cùng có trường hợp ở rể ( thường diễn ra so với rể út ). Thời gian ở rể hoàn toàn có thể từ 1 – 2 năm đến 7 – 8 năm nhưng không ở rể đời. Trường hợp nhà gái không có con trai thì chàng rể sau khi hết hạn ở rể vẫn tách hộ ở riêng, làm nhà sát nhà cha mẹ vợ để tiện trông nom chăm nom .Mùa cưới của người Si La cũng giống như nhiều tộc người khác, thường được tổ chức triển khai vào tháng 11, 12 âm lịch, đây là thời gian nông nhàn, cũng là thời gian sửa sang nhà cửa để sẵn sàng chuẩn bị đón năm mới và dựng vợ, gả chồng cho con cháu. Theo phong tục của người Si La, trai, gái từ 14 – 15 tuổi trở lên đã được coi là người lớn và mở màn quy trình khám phá, kiến thiết xây dựng mái ấm gia đình .Về lễ cưới, trước ngày cưới, mái ấm gia đình nhà trai làm cơm mời ông mối là người già có uy tín trong bản về giúp sức mái ấm gia đình. Trong lễ dạm hỏi ( Nó tè dẹ ), ông mối là người đại diện thay mặt cho mái ấm gia đình nhà trai đến thưa chuyện, đàm đạo những việc làm tương quan đến đám cưới với họ nhà gái như : ngày đẹp để tổ chức triển khai lễ cưới, giờ đẹp để đón dâu, những lễ vật mà nhà gái nhu yếu nhà trai phân phối .Lễ cưới được diễn ra trong hai ngày, ngày thứ nhất như đã hẹn trước, chị hoặc em gái của chú rể sẽ đến nhà cô gái thật sớm ngỏ lời xin dâu. Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm, nhà chú rể đã sinh động người đến. Ông mối cũng xuất hiện giúp mái ấm gia đình chú rể chuẩn bị sẵn sàng lễ vật, thực thi những nghi lễ theo phong tục truyền thống lịch sử của dân tộc mình. Đồ lễ sẵn sàng chuẩn bị cho lễ cưới gồm 1 con gà, 2 bát gạo nếp, 2 quả trứng, 1 chai rượu, 1 bát nước, 1 cái cân tiểu li, 1 chiếc vòng cổ và 5 đồng bạc. Đến giờ đẹp đã định trước, từ sáng sớm ( trước khi gà gáy ), chị hoặc em gái của chú rể sẽ sang nhà gái xin dâu và được mẹ hoặc chị dâu của cô gái dắt tay cô gái ra cửa, trao cho những cô gái của mái ấm gia đình nhà trai. Sau đó, em gái hoặc chị gái chú rể cùng bè bạn của cô dâu đến đưa cô dâu đi từ biệt xóm làng. Từ biệt xong, đoàn đưa cô dâu vào rừng để làm lễ nhập họ nhà trai .Sáng tinh mơ, từ rừng trở lại, mọi người đi thành hàng ngang, cô dâu đi giữa đến cửa nhà trai thì dừng lại. Lúc này, thầy cúng bảo chú rể và mẹ chú rể chuẩn bị sẵn sàng lễ cúng gồm 1 con gà nướng, 1 quả trứng luộc, 1 gói xôi, 1 bát nước lã, 1 cái thìa để báo cáo giải trình với tổ tiên. Ông thầy cúng nói : ” Hỡi tổ tiên, ngày hôm nay ngày lành tháng tốt, mái ấm gia đình ta chính thức nhận thêm một thành viên mới, từ nay sẽ là dâu của nhà mình, mong tổ tiên phù hộ và chứng giám ” .Khi về đến nhà trai, cô dâu và mọi người trong đoàn phải ngồi ngoài hiên chờ mẹ chồng lấy phục trang mới để cô dâu thay. Lúc này, trưởng tộc ngồi cạnh nhà bếp thiêng ở trong nhà sẽ làm lễ báo tổ tiên, thông tin là mái ấm gia đình sẽ có thêm thành viên mới. Sau đó, mẹ chú rể mang 1 vòng cổ, 1 vòng tay và 1 bộ váy áo mới ra cho cô dâu. Mẹ chú rể đeo vòng tay, vòng cổ cho cô dâu. Những người phụ nữ quây lại xung quanh cô dâu, che cho cô dâu mặc bộ áo mới, quấn tóc và đội khăn lên đầu cho cô dâu ngay trước cửa nhà .Sau khi cúng xong, trưởng tộc trao trứng gà luộc và xôi cho chú rể để thực thi những thủ tục, nghi thức trước sự tận mắt chứng kiến của tổ tiên và mọi người trong gia tộc. Chú rể từ trong nhà bước ra, tay cầm xôi, tay cầm trứng, hai tay bắt chéo nhau chạm vào tay cô dâu. Cô dâu đứng ở ngoài cửa cũng bắt chéo hai tay trong lúc nhận. Lúc này, đôi vợ chồng trẻ phải cùng ăn hết xôi và trứng ngay tại cửa trước sự tận mắt chứng kiến của tổ tiên và mọi người trong họ. Nghi thức này biểu lộ sự chung thủy trong tình yêu của đôi vợ chồng trẻ trước sự tận mắt chứng kiến của mọi người .Trong nhà, mọi người tham gia lễ cưới ngồi xung quanh mâm, thầy cúng xé thịt gà cho cô dâu ăn và nói : ” Bây giờ mày đã chính thức làm dâu nhà họ này, kể từ nay mày phải nghe theo … “, rồi thầy cúng quay sang nói với mọi người : ” Thủ tục đã xong, hai đứa đã chính thức là vợ chồng, tất cả chúng ta hãy cùng nhau ẩm thực ăn uống và nhảy múa “. Thầy cúng vừa dứt lời, tổng thể những người xuất hiện trong lễ cưới liền kéo tay cô dâu, chú rể ra khoảng chừng sân rộng trước cửa nhà, cùng nhau hát và nhảy múa. Đối với người Si La, trong đám cưới không hề thiếu những bài hát chúc phúc và cả những điệu múa vui nhộn, điều này làm cho đám cưới không chỉ mang ý nghĩa mừng vui cho hai mái ấm gia đình, cho đôi vợ chồng trẻ, mà còn thực sự là một nét hoạt động và sinh hoạt văn hóa truyền thống mang đặc thù hội đồng. Những điệu múa rực rỡ và mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống tộc người Si La .

Tập quán sinh đẻ của người Si La Trước khi đẻ, phụ nữ Si La phải kiêng khem nhiều thứ, chủ yếu là kiêng ăn uống, phụ nữ sinh con ở trong nhà và đẻ ngồi. Nhau thai được đựng trong ống nứa, phủ một lớp tro bếp lên trên, đựng ở góc bếp cho đến ngày đặt tên. Hai ba ngày sau khi sinh, người ta đặt tên cho đứa trẻ. Bố mẹ thường mời người già trong bản tới đặt tên cho con để mong con cái được sống lâu, sống thọ giống như họ. Sau khi đặt tên, bà già lấy lá chuối bịt ống đựng rau lại, nếu con trai buộc chín lạt, nếu con gái thì 7 lạt. Ba ngày sau khi đặt tên phải cúng hồn cho trẻ nhỏ. Đồng bào có cách đặt tên riêng, nam giới có tên đệm là “chà”, nữ giới có tên đệm là “có”. Khi xưng danh, người ta quen gọi liền cả tên đệm lẫn tên chính như
Chà Xóa, Chà Thái, Có Ché, Có Dớ
Tang ma của người Si La Người Si La coi trọng việc tắm rửa sạch sẽ cho người đã khuất, trước khi đưa họ về thế giới bên kia đoàn tụ với tổ tiên, họ dùng một loại cỏ xua đi những gì xấu xa ở cõi trần
“Rửa chân tay không phải lấy khăn rửa đâu, có một loại cỏ thường dùng gọi là a hé. Rửa qua đi, có lý là rửa những tật xấu ở dưới này, để không mang tật xấu vào thế giới kia, con cái cũng được yên ổn”. Sau khi khâm liệm xong, gia đình làm thịt lợn để cúng hồn ma cho người chết và xin phép làm nhà mồ, chỉ khi nào làm xong nhà mồ người ta mới đào huyệt bên trong. Huyệt bao giờ cũng đặt ở phía dưới bản và không quá xa bản. Đồng bào không có khái niệm về một nghĩa địa chung, nhưng có những quy định liên quan đến đất chôn. Nghĩa địa hay mồ mả đều được gọi chung là á cạ. Người Si La để mộ của những người cùng họ gần nhau và kiêng đặt mộ ở xen giữa mộ của những người khác họ. Nghi thức chọn đất cũng khá đơn giản, người ta chỉ mang theo một cục than và một cái cuốc. Chọn được đất ưng ý thì cuốc một nhát rồi để cuốc và cục than lại, coi như mảnh đất đã được chọn. Sáng hôm sau, bà con trong bản bắt đầu giúp làm nhà táng trên đất đã được chọn. Huyệt được đào bên trong nhà táng. Quan tài được làm bằng cây gỗ bổ đôi khoét rỗng. Người Si La không có tục cải táng hay tảo mộ, trong vòng 3 năm đầu sau khi chôn, con cái thường xuyên đi thăm mộ cha mẹ. Xưa kia, người Si La thường để người chết trong nhà từ 3 – 5 ngày, nhưng nay theo nếp sống mới họ không để quá 24 giờ.
Nhuộm răng

Người Si La có phong tục đàn ông nhuộm răng đỏ, đàn bà nhuộm răng vàng. Tuy nhiên, lúc bấy giờ đa phần người Si La không nhuộm răng .

Kiêng cữ

Người Si La rất coi trọng thờ cúng tổ tiên với lòng tin rằng ở quốc tế bên kia tổ tiên sẽ phù hộ và che chở cho con cháu. Nhà nào cũng có bàn thờ cúng nhưng chỉ thờ cha mẹ đã khuất. Từ đời ông bà trở lên được thờ ở nhà người trưởng họ. Nếu cha mẹ còn sống, con cháu không được tách ra ở riêng, dù đã có vợ con, vì không hề chia bàn thờ cúng được. Muốn có bàn thờ cúng phải có chén thờ lấy từ chén cúng cơm cho cha mẹ trong những ngày làm ma cha mẹ. Có bao nhiêu con trai người ta cúng bấy nhiêu chén và để toàn bộ lên bàn thờ cúng. Đến khi cần chia nhà, bạn bè mỗi người lấy một trong những chén ấy để làm bàn thờ cúng của mình. Người Si La chỉ cúng tổ tiên vào dịp lễ tết, cơm mới và vào dịp cưới xin của con cháu .

Nhà cửa

Người Si La ở nhà gỗ .

Trang phục

Trang phục của phụ nữ Si La khá cầu kỳ. Mảng áo trước ngực áo may bằng vải khác màu với áo và được gắn đầy những đồng xu bạc, xu nhôm. Khăn đội đầu của phụ nữ khác nhau theo lứa tuổi. Các cô thường đeo chiếc túi bằng dây rừng, được trang trí những tơ chỉ đỏ sặc sỡ .

Dân ca dân tộc Si La

Các bài dân ca được người Si La sáng tác trong quy trình sinh sống và lao động sản xuất không ngừng hoàn thành xong, trải qua sự tăng trưởng lâu bền hơn nó hình thành như một nét văn hóa truyền thống tất yếu và độc lạ, mang nét văn hóa truyền thống riêng không liên quan gì đến nhau so với những dân tộc khác. Các bài hát dân ca phong phú về mô hình, chia thành những thể loại như : Thơ ca lao động sản xuất ; Thơ ca nghi lễ phong tục, gồm có hát trong đám tang, hát mừng nhà mới, hát trong lễ cưới ; Thơ ca hoạt động và sinh hoạt, gồm có hát ru, hát giao duyên, hát đi dạo .Các thể loại bài hát của dân tộc Si La trong động sản xuất mang tính giáo dục, đức tính về sự chịu khó, chịu khó. Các bài hát trong lao động tương đối đa dạng và phong phú, có những bài hát đặc tả về tập quán canh tác lúa, từ khâu đi tìm đất đến khi thu hoạch và đem lúa về nhà ; những bài hát dăn dạy nhau trong lao động … Với những bài hát rất dễ thuộc như vậy nên từ những người già đến trẻ nhỏ đều hoàn toàn có thể hát được .

Hát trong lao động sản xuất (giá cố mề i ệ í lạ thê ệ): Với bài hát này, người nghe có thể cảm nhận được sự thôi thúc, thúc giục nhau trong việc làm nương  rẫy… Với ngôn từ dễ thuộc, tiết tấu nhanh, dứt khoát rất dễ tạo cảm hứng cho người hát nên người Si La rất hay hát bài hát này, có thể một người hát, cũng có thể nhiều người cùng hát.  

” Làm nhanh nhanh, làm nhanh nhanhĐi tìm nương đi, đi tìm nương nhanh điĐi phát nương đi, phát nương nhanh điKhô nương rồi, khô nương rồiĐi đốt đi, đốt nhanh nhanh điĐi dọn nương đi, dọn nhanh nhanh điĐi chọn lúa đi, chọn nhanh nhanh điĐi tra hạt đi, tra hạt nhanh nhanh điMọc lên rồi, mọc lên rồiNhổ cỏ nhanh đi, nhổ cỏ nhanh nhanh điLúa chín rồi, lúa chín rồiGặt lúa đi, gặt lúa nhanh nhanh điVác lúa đi, vác lúa nhanh nhanh điĐể thành đống đi, thành đống nhanh nhanh điĐập lúa đi, đập lúa nhanh nhanh điĐeo thóc đi, đeo nhanh nhanh điNhập vào nhanh đi, nhập nhanh nhanh điCó kho thóc rồi, có kho thóc rồi … ” .

Hát đi nương (Giá cố ạ dịa i là thê): Đây là bài hát về tầm quan trọng của lao động sản xuất, về việc học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau trong làm nương làm rẫy…

Người Si La có cả một mạng lưới hệ thống những bài hát gắn với những phong tục tập quán của dân tộc như phong tục tang ma, phong tục cưới xin … Đây là những bài hát mang tính hội đồng với nhiều người cùng tham gia hát. Trong đám cưới, họ hát để chúc mừng cho gia chủ, chúc mừng cho cô dâu chú rể sống niềm hạnh phúc, và chúc sức khoẻ những người đến dự lễ cưới đó. Trong đám tang người Si La hát tập thể tích hợp với múa để tỏ lòng an ủi, san sẻ những người đến dự với tang chủ quên đi sự đau buồn, tiễn đưa người quá cố về nơi an giấc .

Hát trong tang lễ  “Sí gố ạ nệ ệ ồ là sò sò ồ vì ệ”:

” Các con những cháu, anh chị em xòe theo lễ tangKhông buồn không khóc cho vui những người buồnNgười đã khuất rồi vui tươi không buồnNgười trong mái ấm gia đình không được buồn để cùng bạn bè vui đêm nay … ” .Thơ ca hoạt động và sinh hoạt là thể loại bài hát nhiều mẫu mã nhất với nhiều nội dụng khác nhau, mang nhiều âm sắc tình cảm thân thiện như những bài hát ru, hát giao duyên, hát đồng giao …

– Hát ru (dè ví ì thịa), người Si La có rất nhiều những bài hát ru tuỳ thuộc vào đối tượng hát, có thể là bố mẹ hát ru con, có thể là anh chị hát ru em… Trong các bài hát ru thường thể hiện tình yêu thương của người hát đối với con trẻ, mong muốn con lớn lên trưởng thành và nhớ đến bố mẹ như uống nước phải nhớ lấy nguồn…

” Con quý của cha mẹ ơi con quýBố mẹ không chăm nom được nhiều con khắc lớn lênBố mẹ không cõng, không bế cho con lớn nhanhBố mẹ bế con nhiều quá con lớn lên cha mẹ thương con lắmBố mẹ cõng nhiều quá, bế nhiều quá sau này lớn lên con có nhớ khôngCon quý ơi con quýNgủ nhanh nhanh, ngủ nhanh cho chóng lớn ” .

– Hát giao duyên (Dè khà dè mi à mạ í lạ thê phụa):  là hình thức hát giữa những người nam nữ thanh niên trao đổi tình cảm với nhau. Qua lời ca tiếng hát của mình để bày tỏ tình cảm với người yêu. Các chàng trai, cô gái người Si La có thể hát đối đáp với nhau trong những bối cảnh khác nhau như khi lên nương trồng lúa trồng ngô, khi đi chơi chợ hoặc đi chơi ngày Tết…

” Người đẹp nhất là tình nhân mình

Mình yêu lắm không sao bỏ được

Lúc nào cũng nhớ cũng yêuSố mình hợp sẽ thiết kế xây dựng với nhauÔng trời đã nhất trí mình đến với nhauMình sẽ kiến thiết xây dựng mái ấm gia đình thật sựXây dựng niềm hạnh phúc lâu dài hơnXây dựng mái ấm gia đình thật yên ấmCho nhanh có con cháu nhiềuYêu người trong bản mình không đi đâu nữaLúc nào cũng nhớ đến nhauKhông khi nào xa nhau đượcNgười đẹp nhất là người mình yêuSẽ không cho gặp với người khácChỉ là tình nhân thật sự của anh … ” .Bên gái hát :” Yêu anh thật sự em cũng nhớ anh lắmĐi đâu em cũng nhớ đến anhEm muốn kiến thiết xây dựng mái ấm gia đình với anhAnh có thực sự muốn kiến thiết xây dựng với em khôngEm về nhà anh có cho em xấu hổ khôngĐể xấu hổ người ta em sẽ không vềAnh thật sự có muốn lấy em khôngAnh thật lòng em cũng sẽ nhận lờiCả đời mình sẽ cùng với nhauMình kiến thiết xây dựng mái ấm gia đình chỉ có một lần thôiKhông để người ta cười mìnhĐi đâu cũng nhớ đến nhau … ” .

– Hát đêm trăng sáng (i la the be le mi sa):  là những bài hát được các cô gái ngồi dưới đêm trăng nhớ người yêu, họ bài hát này để bộc lộ tâm tình của mình, với những ngôn từ ngụ ý rất khéo léo nhắc nhở bố mẹ rằng: những đêm trăng sáng như vậy hãy để cho con được tự do đi chơi cùng người yêu, bố mẹ không nên canh chừng con quá như vậy…

– Hát mừng nhà mới ( í ta khe ẹ ) : trong những dịp vui như ngày mừng nhà mới của người Si La là những ngày đồng đội, họ hành, dân bản tụ họp tại nhà gia chủ để chúc mừng nhà mới. Trong mâm rượu của những người trung tuổi, những người biết hát thường hát với nhau để vừa chúc mừng cho chủ nhà làm được nhà mới và cũng vừa để nhắc nhở nhau trong việc làm nương, làm ruộng …” Tất cả anh chị em trong bảnTìm cây, tìm gỗ, tìm gianh rồiCác anh chị em mình ạLàm xong nhà rồi về nhà mớiMai kia sẵn sàng chuẩn bị đi làmNgày đi làm đến ngày tháng rồiSắp đến ngày đến tháng rồiLá vàng héo chuẩn bị sẵn sàng làm nươngCây đào sắp nở hoa rồiCác cây đã sắp thay láCây quả sắp ra rồi mình phải phát nươngCon chim nó sắp kêu rồiChỗ nào không biết làm thì ông bà dạy choNgày nào cũng phải đi làmLúc nào cũng phải đi nếu chưa xongCon cả con thứ không được lườiBố mẹ con chau cùng nhau điNếu con không biết cha mẹ đi con phải theo … ” .

– Hát trong ngày tết (ồ sị gợ i lạ thịa): là những bài hát về việc kết thúc một năm cũ, bước sang năm mới với lời chúc mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với gia đình, không để sảy ra những điều không may… Những bài hát này thường được người Si La hát vào những ngày tết, khi các con rể đến chúc tết bố mẹ vợ, khi những người anh em, họ hàng và dân bản đến chơi với nhau trong ngày tết.

” Đến đầu năm mới rồiNăm mới đã đến rồiAnh chị em, con cháuNgày cũ cũng qua rồiBước sang ngày mới rồiNăm cũ đã qua điBước sang năm mớiChọn ngày tốt ngày hôm nayNgồi mâm không cho lật bàn lật ghếKhông để rung bàn rung ghếĂn thịt uống rượu rồiĂn thịt không được để nônUống rượu không được để say

Không được đánh cãi chửi nhau

Không được vi phạm những lí lễ của mìnhKhông biết thì dạy cho, phải nghe lại … ” .