Người Cống – Wikipedia tiếng Việt

{{Infobox Ethnic group
|group= Người Cống / Phu Noi
|image=
|caption=
|poptime= 40.000
|popplace=  Lào: 35.600,  Thái Lan,
Việt Nam: 2.729 @2019 Lỗi chú thích: Thẻ sai; thông số tên sai, như, nhiều thông số tên quá[1].

Tiếng Cống là ngôn từ thuộc nhóm ngôn từ Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng .

Dân số và địa phận cư trú[sửa|sửa mã nguồn]

Dân số người Cống tại Nước Ta năm 2019 là 2.729 người [ 2 ], năm 1999 là 1.676 người [ 3 ] .

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cống ở Việt Nam có 2.029 người, cư trú tại 13 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cống cư trú tập trung tại các tỉnh:
Lai Châu (1.134 người, chiếm 55,9% tổng số người Cống tại Việt Nam),
Điện Biên (871 người, chiếm 42,9% tổng số người Cống tại Việt Nam), còn lại 24 người sinh sống ở một số tỉnh, thành khác[4].

Ở Điện Biên, theo số liệu tìm hiểu năm 2009, toàn tỉnh có 184 hộ với 923 nhân khẩu người Cống sinh sống tại những bản : Púng Bon, Huổi Moi thuộc xã Pa Thơm, huyện Điện Biên ; Bản Lả Chà, xã Pa Tần, huyện Nậm Pồ ; bản Nậm Kè, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé .Ở Lai Châu, người Cống sinh sống đa phần tại xã Nậm Khao, huyện Mường Tè .

Đặc điểm kinh tế tài chính[sửa|sửa mã nguồn]

Người Cống sống đa phần bằng nghề làm nương rẫy, canh tác theo lối phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống. Gần đây, họ đã làm nương bằng cuốc và sử dụng trâu, bò làm sức kéo. Nhiều thức ăn của người Cống là tìm kiếm ở trong rừng, kiếm cá dưới suối đa phần bắt bằng tay hoặc bả thuốc độc lá cây .

Phụ nữ Cống không biết nghề dệt, chỉ trồng bông đem đổi lấy vải. Song nam nữ đều đan lát giỏi, có nghề đan chiếu mây nhuộm đỏ.

Tổ chức hội đồng[sửa|sửa mã nguồn]

Mỗi họ của người Cống có một trưởng họ, có chung một kiêng cữ, có chung quy định về chỗ đặt bàn thờ cúng tổ tiên và cách cúng bái. Trong từng mái ấm gia đình, người chồng, người cha giữ vai trò đứng đầu, khi người cha chết thì con trai cả sửa chữa thay thế .

Hôn nhân mái ấm gia đình[sửa|sửa mã nguồn]

Trước kia chỉ trai gái người Cống mới lấy nhau, nay đã có một số ít dâu rể là người Thái, Hà Nhì … Theo phong tục Cống, người cùng họ phải cách nhau bảy đời mới được lấy nhau. Việc cưới xin do nhà trai dữ thế chủ động. Sau lễ dạm hỏi, chàng trai khởi đầu ở rể vài năm, còn cô gái mở màn búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là tín hiệu đã có chồng. Thường họ sinh vài đứa con mới cưới. Nhà trai phải có bạc trắng làm lễ cưới nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải cho của hồi môn để cô dâu đem về nhà chồng. Ít ngày sau lễ đón dâu, đôi vợ chồng mới đến nhà cha mẹ vợ làm lễ lại mặt .
Nền văn nghệ dân gian Cống khá nhiều mẫu mã. Với những làn điệu dân ca sâu lắng người ta hát vào dịp tiệc tùng vui chung .

Người Cống thường ở nhà sàn, nhà nào cũng ngăn ra thành 3-4 gian, gian giữa là nơi tiếp khách, chỉ có một cửa ra vào ở đầu hồi và một cửa sổ ở gian giữa.

Chủ yếu biểu lộ qua phục trang nữ. Ống tay áo trang trí giống người Hà Nhì. Cổ trong giống dân cư Việt Mường, cúc giống phong thái Môn-Khmer. Váy đen, khăn đen không trang trí .

Người Cống Nước Ta có nổi tiếng[sửa|sửa mã nguồn]