Lễ cưới (người Tày) – Wikipedia tiếng Việt

Lễ cưới Tày là một nghi lễ của người đồng bào dân tộc Tày, Tây Bắc và Đông Bắc

Lễ Dạm hỏi[sửa|sửa mã nguồn]

Tại lễ này, một người chú, bác đại diện thay mặt cho nhà trai mang theo một đôi gà trống thiến, gạo nếp cùng một người đi cùng gánh lễ vật để xin đám cưới .

Lễ Ăn hỏi ( Lễ nhận thông gia )[sửa|sửa mã nguồn]

Thành phần gồm 1 ông chú hoặc bác bên bố chàng trai làm trưởng phi hành đoàn, 1 ông chú hoặc bác bên mẹ chàng trai làm phó đoàn. Lễ vật đám cưới 12 mâm khách gồm :

  • 12 con gà hoặc một con lợn khoảng 40–50 kg
  • Bánh chưng
  • Bánh giày
  • Rượu 20 LÍT

Từ lễ ăn hỏi này, hai bên xin phép được qua lại nhà nhau như người nhà trong những ngày lễ tết hay có công việc lớn.

Nhà trai xem ngày tốt để thực thi lễ cưới. Tục thách cưới, nhà trai phải lo hàng loạt đồ ăn cho khách mời của nhà gái trong ngày cưới như : gà, lợn, xôi, bánh, gạo, rượu …. Trước đây, thách cưới bằng bạc trắng, nay thách cưới bằng tiền để sắm đồ cưới .Theo phong tục, những mái ấm gia đình có con gái từ 10 tuổi trở lên phải trồng bông dệt vải. Khi cô dâu về nhà chồng phải sẵn sàng chuẩn bị cho ông bà nội, ngoại, cha mẹ chồng, cô, dì, chú bác bên chồng mỗi mái ấm gia đình một đôi gối, một cái chăn bông. Nếu bạn bè chưa có mái ấm gia đình thì mỗi người sẽ được cô dâu Tặng Kèm một cái chăn và một cái gối. Đồng thời, cô dâu còn phải sẵn sàng chuẩn bị rất đầy đủ mọi dụng cụ, ship hàng hoạt động và sinh hoạt và lao động sản xuất để mang theo về nhà chồng. Cô dâu trong ngày cưới mặc áo dài đen, váy đen, vấn tóc trong vành khăn .

Trước khi nhà trai đi đón dâu phải làm lễ cúng tổ tiên. Khi đi đón dâu, nhà trai gồm có hai người cao tuổi đại diện, chú rể, phù rể, bà gia hặp (bà đưa cơi trầu). Đi đến chân cầu thang nhà gái, ông bác đại diện nhà trai xin phép rửa chân để lên nhà nói chuyện xin dâu. Trước khi ăn cơm ở nhà gái, 2 người lớn tuổi đại diện nhà trai cùng chú rể, phù rể phải đi mời cơm lần lượt quan khách của họ nhà gái. Trước khi đoàn trở về nhà trai, cô dâu, chú rể lạy ông bà, bố mẹ,… nhà gái mỗi người 3 lạy.

Đoàn rước dâu khi đi ra khỏi nhà gái thì sắp xếp 2 người cao tuổi đại diện thay mặt nhà trai đi trước, cô dâu, chú rể đi sau, tay cô dâu cầm nón, thẻ hương. Khi xuống cầu thang, cô dâu đội nón lên đầu, đến chân cầu thang cắm một thẻ hương. Ra đến cổng nhà lại cắm một thẻ hương ở cổng. Đoàn đưa dâu đại diện thay mặt cho họ nhà gái gồm có 1 ông, 1 bà cao tuổi ( ông ta thống, bà tai thống ) phù dâu, bạn bè, bạn hữu …

Buổi tối hôm đón dâu, bà tai thống, ông ta thống và phù dâu ngủ lại ở nhà trai. Bà tai thống và phù dâu sẽ ngủ cùng cô dâu. Sáng hôm sau, cô dâu, phù dâu dậy sớm lấy nước, lấy khăn bê đến cho mọi người trong nhà rửa mặt.

Trong đời sống mới ngày hôm nay, tục cưới xin của người Tày đây tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn lưu giữ được những nét văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử đặc trưng của địa phương .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]