Ai là ‘cha đẻ’ chữ quốc ngữ?

Tại hội thảo chiến lược Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ quốc ngữ tổ chức triển khai tại Điện Bàn, Quảng Nam ngày 24.8, những nhà khoa học đã dành thời lượng lớn để xác lập ai là người khai sinh chữ quốc ngữ – đề tài đã được những học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước luận bàn, tranh luận hơn 100 năm qua .
Hội thảo do Bộ KH-CN, Bộ VH-TT-DL, Hội Khoa học lịch sử dân tộc việt nam, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Nam tổ chức triển khai .

“Xét lại” Rhodes

Đề xuất Thanh Chiêm là “di tích đặc biệt”

Lần thứ 2 tham gia hội thảo về Thanh Chiêm, GS-TS Trương Quốc Bình (Ủy viên Hội đồng di sản văn hóa quốc gia) đã đề nghị Bộ VH-TT-DL sớm xem xét đưa dinh trấn Thanh Chiêm (tại xã Điện Phương, TX.Điện Bàn) vào danh sách di tích quốc gia. Dù là phế tích, nhưng theo ông, Thanh Chiêm thậm chí xứng đáng là di tích quốc gia đặc biệt, cần được coi là biểu tượng văn hóa của quá trình mở mang bờ cõi của dân tộc.

Khởi đầu từ năm 1912, giáo sĩ người Pháp Léopold Michel Cadière đã khẳng định trong cuộc hội thảo về văn hóa VN tại Paris rằng công lao phát minh ra chữ quốc ngữ thuộc về giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes (1591-1660). Chính luận điểm của một học giả có uy tín như Cadière đã được nhiều thế hệ học giả, nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa VN mặc nhiên chấp nhận.
Khởi đầu từ năm 1912, giáo sĩ người Pháp Léopold Michel Cadière đã chứng minh và khẳng định trong cuộc hội thảo chiến lược về văn hóa truyền thống việt nam tại Paris rằng công lao phát minh ra chữ quốc ngữ thuộc về giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes ( 1591 – 1660 ). Chính luận điểm của một học giả có uy tín như Cadière đã được nhiều thế hệ học giả, nhà nghiên cứu về ngôn từ và văn hóa truyền thống việt nam mặc nhiên gật đầu .Đến năm 1950, GS Dương Quảng Hàm viết sách việt nam văn học sử yếu cũng nhìn nhận Rhodes có công nhất, là người tiên phong đem in những cuốn sách bằng chữ quốc ngữ. Giai đoạn 1985 – 1991, những nhà nghiên cứu như GS-TS Lê Văn Hảo, Vũ Ngọc Phan, GS Nguyễn Văn Hoàn … cũng đánh giá và nhận định Rhodes là người tiên phong đã học hỏi điều tra và nghiên cứu những cung giọng trong tiếng Việt để triển khai xong sự phiên âm tiếng Việt bằng vần âm Latin, có công đầu trong việc điều tra và nghiên cứu, có vai trò đặc biệt quan trọng “ mà không ai hoàn toàn có thể tranh chấp được ” … Năm 1994, đề tài khoa học cấp nhà nước Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ 20 do Hoàng Tiến chủ biên cũng liên tục nhìn nhận Rhodes “ là đại diện thay mặt và giữ công đầu ” trong việc khai sinh chữ quốc ngữ .
Tuy nhiên, công lao của Rhodes đã bị nhóm nghiên cứu và điều tra độc lập Đinh Trọng Tuyên – Đinh Bá Truyền ( Quảng Nam ) can đảm và mạnh mẽ lên tiếng đòi “ xét lại ” tại hội thảo chiến lược. Trong tham luận của mình, nhóm nghiên cứu và điều tra do ông Tuyên đại diện thay mặt đã liệt kê nhiều quan điểm trái chiều so với L.M.Cadière. Cụ thể, năm 1927, học giả Phạm Quỳnh nêu quan điểm “ không phải một người nào làm ra một mình ” so với chữ quốc ngữ. Năm 1955, học giả Georges Taboulet ( Pháp ) trong cuốn Công trạng của Pháp ở Đông Dương lan rộng ra góc nhìn hơn khi bàn về việc phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin, cho rằng việc khai sinh chữ quốc ngữ là công lao tập thể, còn linh mục de Rhodes đã hệ thống hóa, chỉnh lý và phổ cập loại chữ này. Đáng quan tâm, năm 1972, linh mục Joseph Đỗ Quang Chính tỏ ra thiếu tín nhiệm vấn đề của Cadière khi cho rằng Rhodes chỉ là một trong những người sáng lập “ nhưng xem ra phần đông lại tôn vinh quá mức sự nghiệp của ông ” .

Ai là 'cha đẻ' chữ quốc ngữ? - ảnh 1Bản kinh Lạy Cha năm 1632, do Pina và một thanh niên giáo dân người Việt lần đầu dịch sang tiếng Việt

Bản kinh Lạy Cha năm 1632, do Pina và một người trẻ tuổi giáo dân người Việt lần đầu dịch sang tiếng Việt

“Vai trò số 1” của linh mục Pina

\ n
Nhóm điều tra và nghiên cứu Đinh Trọng Tuyên đã đưa ra những cứ liệu cho biết linh mục người Pháp Roland Jacques đã phát hiện 2 tác phẩm chưa công bố của linh mục người Bồ Đào Nha Francisco de Pina ( 1585 – 1625 ) gồm bức thư viết dở bằng Bồ ngữ ở Ma Cao và tiểu luận Nhập môn tiếng Đàng Ngoài bằng La ngữ tại Bồ Đào Nha. Nhờ đó, năm 2002 Roland Jacques đã chứng tỏ Pina mới chính là người tiên phong phát minh sáng tạo ra chữ quốc ngữ .
Tại hội thảo chiến lược, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã dẫn lời tựa do chính Alexandre de Rhodes viết khi xuất bản cuốn Từ điển Việt – Bồ – La ( năm 1651 ) công khai minh bạch thừa nhận vai trò số 1 của linh mục Pina trong việc Latin hóa tiếng Việt. Pina đến Đàng Trong năm 1617, sau đó học tiếng Việt, trở thành giáo sĩ tiên phong giảng đạo cho Fan Hâm mộ địa phương mà không cần phiên dịch. Ông biên soạn tài liệu Phương pháp Latin hóa tiếng Việt và cuốn Ngữ pháp tiếng Việt ; dạy tiếng Việt cho 1 số ít giáo sĩ khác, trong đó có Rhodes ( đến Thanh Chiêm năm 1624 ) .
Tại phiên Kết luận hội thảo chiến lược chiều qua, nhà sử học Dương Trung Quốc thống nhất với nhiều tham luận không cho Rhodes là “ cha đẻ ” của chữ quốc ngữ ( như quan điểm của nhiều học giả kỳ cựu trước kia ) ; đồng thời nhìn nhận linh mục de Pina chính là người phát minh sáng tạo chữ quốc ngữ, còn linh mục de Rhodes là người triển khai xong xuất sắc, và Thanh Chiêm là nơi tiên phong xuất phát chữ quốc ngữ. “ Người Pháp có ý đồ khi nhấn mạnh vấn đề vai trò của giáo sĩ Pháp Rhodes khi họ vào Đông Dương và có chủ trương mới so với văn hóa truyền thống địa phương ”, ông Quốc nói .
Một chi tiết cụ thể mê hoặc được nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Quý ( TP.Hồ Chí Minh ) đề cập là, tuy người Pháp có tận dụng chữ quốc ngữ để củng cố chính sách bảo lãnh ở việt nam, nhưng sau cuối chữ quốc ngữ đã trở thành vũ khí khơi dậy ý thức vương quốc dân tộc bản địa .

Vai trò của người Việt và Nhật

Tại hội thảo, bà Châu Yến Loan (tác giả cuốn Dinh trấn Thanh Chiêm – kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong, NXB Đà Nẵng – 2015) đã nhắc đến vai trò của người VN cộng tác với giáo sĩ Pina, đó là thanh niên giáo dân có tên đạo là Phêrô cùng với Pina lần đầu tiên dịch một số bản kinh sang tiếng Việt hồi năm 1618, khởi đầu công cuộc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin. Bên cạnh đó, các tên tuổi học giả như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh… cùng nhiều người Quảng cũng đã đóng góp tích cực trong việc phổ cập và truyền bá chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ 20 thông qua phong trào Duy Tân và hoạt động của các chí sĩ đương thời.

Nhà điều tra và nghiên cứu Fukuda Yasuo ( Trường ĐH TP. Hà Nội ) thì nhìn nhận vai trò của người Nhật trong việc tương hỗ thiết lập mạng lưới hệ thống phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin tại xứ Quảng, trong đó có Miguel Maki và Josef Tsuchimochi ( đến Đàng Trong quy trình tiến độ 1615 – 1624 ) .
Tại hội thảo chiến lược, linh mục Nguyễn Trường Thăng ( Quảng Nam ) đã đề xuất kiến nghị tổ chức triển khai một ngày tôn vinh chữ quốc ngữ và xây dựng một kho lưu trữ bảo tàng chữ quốc ngữ .