BIÊN GIỚI BIỂN GIỮA VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN – Luật sư giỏi | Luật sư uy tín | văn phòng luật sư

Việt Nam – Campuchia có chung đường biên giới dài 1270 km. Trong quá khứ, mối quan hệ của hai nước cũng có nhiều stress, xích míc phát sinh, đặc biệt quan trọng là những yếu tố phát sinh trong việc xác lập biên giới chủ quyền lãnh thổ. Từ thập niên 1990, mối quan hệ của hai nước đã từng bước cải tổ nhờ việc tham gia những Hiệp định thương mai quốc tế trong khu vực và quốc tế. Biên giới vùng biển là một yếu tố khá nhạy cảm, cần nghiên cứu và điều tra sâu và cặn kẽ hơn để duy trì và tăng trưởng mối quan hệ giữa hai nước .

Biển có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các nước có biển và của thế giới, đây là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thủy sản), phi sinh vật (dầu khí, khoáng sản). Các tuyến đường vận tải trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên.Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hoá trong buôn bán quốc tế, do đó vận tải đường biển đã thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển. 
Vịnh Thái Lan (tên gọi cũ: Vịnh Chân Lạp, Vịnh Xiêm La) là một vịnh nằm ở biển Đông (thuộc Thái Bình Dương), được bao bọc bởi các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Vịnh Thái Lan tương đối nông, độ sâu trung bình của nó chỉ khoảng 45 m, và độ sâu lớn nhất là 80 m. Điều này làm cho sự đối lưu nước tương đối chậm, và dòng chảy mạnh của nước các con sông làm cho nước vịnh tương đối nhạt (3,05–3,25%) và giàu trầm tích. Chỉ ở những vùng nước sâu thì nước biển có độ mặn cao hơn (3,4%) từ biển Đông chảy vào vịnh và chiếm lĩnh các chỗ trũng có độ sâu hơn 50 m. Với những đặc điểm về tự nhiên trên, nên đây là nơi có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản, cũng như chứa đựng tiềm năng phát triển vận tải biển giữa Malaysia, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. 
Các quốc gia có biển ngày càng ý thực được tầm quan trọng và vai trò to lớn của biển với sự phát triển của đất nước mình nên luôn tìm mọi
biện pháp để mở rộng các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán quốc gia. Điều này tất yếu dẫn tới tranh chấp nảy sinh giữa các quốc gia, nó đòi hỏi phải có một cơ chế pháp lý nhất định để giải quyết các tranh chấp này, Việt Nam và Campuchia cũng không nằm trong ngoại lệ.  
Nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý bắt buộc nhằm điều chỉnh vấn đề an ninh biển, đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, sau hơn 4 năm chuẩn bị  và 9 năm đàm phán, ngày 10/12/1982, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982), tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982, được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica. 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Sau khi Công ước Luật biển 1982 ra đời và có hiệu lực, các quốc gia ven biển nói chung, Việt Nam và Campuchia nói riêng đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với những vùng biển được mở rộng theo quy định của Công ước. Quy chế pháp lý đối với lãnh hải đã trở thành biện pháp giải toả cho các yêu sách xung đột giữa các quốc gia với nhau. Lưu thông hàng hải qua vùng lãnh hải và các dải hẹp giờ đây dựa trên các nguyên tắc pháp lý. Tuy nhiên, Công ước không thể đề cập tới tất cả các khía cạnh luật pháp trong hoạt động thực tiễn của các quốc gia, nó càng không phải là nguồn luật duy nhất để các quốc gia hoạch định các vùng biển của mình và giải quyết phân định các vùng biển chồng lấn giữa các quốc gia khác.  
Hiện nay, cả Việt Nam và Campuchia đều quan tâm và mong muốn xác định đường biên giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục 
địa1. Giữa hai bên vẫn còn tồn tại vấn đề phân định đường biên giới lãnh hải trong vùng nước lịch sử là và đường biên giới trong vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Một trong những lý do hai bên chưa phân định được biên giới trên biển là do những khác biệt về lập trường phân định. Lập trường của Campuchia là phân định biên giới trên bộ xong mới phân định biên giới trên biển, còn phía Việt Nam mong muốn giải quyết triệt để song song vấn đề phân định biên giới trên bộ và trên biển. Việc phân định biên giới biển giữa các quốc gia là vô cùng phức tạp, nó đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ các nguyên tắc, tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế, hoàn cảnh hữu quan. Nhận thấy tầm quan trọng của việc phân định  biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia trong mối quan hệ hợp tác hữu nghị của hai bên cũng như tạo tiền đề cho việc khai thác, sử dụng và quan lý vùng biển này, do đó tôi chọn đề tài “Biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm tiểu luận tốt nghiệp của mình.  
2. Tình hình nghiên cứu 
Từ trước đến nay, chủ đề phân định biên giới trên biển đã đạt được bề dày của sự khai thác về mặt khoa học pháp lý cũng như các khoa học chuyên ngành khác.  
Ở phạm vi trong ước, một số tác giả đã có là các bài viết trên các tạp chí, trong các cuộc  hội  thảo  như:  
“Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng”, Lê Minh Nghĩa, Tài liệu hội thảo về phát triển khu vực Châu Á Thái Bình Dương và tranh chấp trên biển Đông. Ở bài nghiên cứu này, tác giả đã khái quát chung lịch sử tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực biển Đông như Việt Nam với Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Campuchia. Tuy nhiên, ở đây tác giả chỉ              
đề cập chung và một phần nhỏ liên quan đến việc phân định biên giới biển giữa Việt Nam và Campuchia. 
“Vấn đề phân định biển trong Luật biển quốc tế hiện đại”, PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế-Luật, số 1/2007. Ở bài viết này, tác giả chỉ tập trung nói về việc phân định biển trong các quy định của Luật Biển quốc tế 1982 và một số phán quyết thực tiễn về việc phân định biển. 
“Pháp luật quốc tế và việc vạch biên giới  giữa  Việt  Nam với các quốc gia láng giềng”, ThS.  Huỳnh  Minh Chính,  Tập  san  biên  giới  và lãnh  thổ  số  14/2003. Trong bài viết này, tác giả cũng chỉ có một phần khái quát chung về việc biên giới giữa Việt Nam với Campuchia, bao gồm cả biên giới trên bộ và biên giới trên biển, chưa tập trung chuyên sâu về vấn đề phân định biên giới trên biển. 
Phía Campuchia thì tiêu biểu có luận án tiến sỹ của Sarin Chhak (“Les Fronties Du Cambodge”), Khim Y (“Le Limites Du Domaine Cambodge”). Những luận án này chủ yếu đề cập đến vấn đề lịch sử biên giới giữa Việt Nam và Campuchia và một số vấn đề xoay quanh đường Brevie, việc mở rộng vùng biển trong Vịnh Thái Lan nói chung. 
Ngoài ra còn có một số bài viết, bài nghiên cứu khác trong nước được in trên sách, các báo, tạp chí, tập san, các trang web về nghiên cứu biển đông…tuy nhiên hầu hết các tác giả chỉ đề cập đến lịch sử vấn đề phân định biên giới biển giữa Việt Nam và Campuchia, chứ chưa thực sự nhìn nhận và đưa ra phương hướng giải quyết vấn đề dưới góc nhìn của luật quốc tế hiện nay. 
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 
– Mục đích của việc nghiên cứu là nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng về biên giới biển Việt Nam – Campuchia. Nêu một số 
phương hướng và đề xuất giải pháp để giải quyết tranh chấp biên giới biển Việt Nam – Cămpuchia theo pháp luật quốc tế.  
– Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: 
Thứ nhất, khái quát việc phân định các vùng biển theo công ước luật biển năm 1982. 
Thứ hai, khái niệm phân định biển. 
Thứ ba, nguyên tắc công bằng trong phân định biển.  
Thứ tư, thực trạng và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm giải quyết việc phân định biên giới biển Việt Nam – Cămpuchia. 
4. Phạm vi nghiên cứu 
Thứ nhất, tiểu luận chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về phân định biên giới biển trong phạm vi của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế 1982 (gọi tắt là Luật Biển quốc tế 1982), Hiệp định về vùng nước lịch sử chung giữa Việt Nam – Campuchia, các tài liệu văn kiện lý luận trước đây về vấn đề biển giữa Việt Nam và Campuchia. 
Thứ hai, đề cập và đánh giá quá trình thực thi các quy định về phân định biên giới biển ở Việt Nam và Campuchia. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Logic hệ thống; phân tích – tổng hợp, xã hội học, so sánh; thống kê phân loại và phương pháp lịch sử đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Bài tiểu luận cũng khai thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm. 
Phương pháp logic – hệ thống: Đây là phương pháp xuyên suốt trong một đề tài tiểu luận. Phương pháp này được sử dụng để giải quyết 
những vấn đề được đặt ra trong bài viết một cách chuẩn xác, mạch lạc và logic nhất, tạo nên sự thống nhất cho bài viết. 
Phương pháp phân tích so sánh: Phương pháp này sẽ được sử dụng trong quá trình phân tích quá trình phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia. Đồng thời tiến hành so sánh đối chiếu với những vụ việc quốc tế tương tự để đánh giá một cách khách quan và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho trường hợp của tiểu luận theo đúng tinh thần của luật pháp quốc tế. 
Phương pháp thống kê phân loại: Phương pháp này được sử dụng để thống kê quá trình đàm phán song phương giữa hai bên hữu quan trong quá trình phân địnhbiên giới. Đồng thời phương pháp này còn thống kê tình hình nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài tiểu luận. Từ đó, có được sự tiếp cận bao quát nhất đối với những nội dung liên quan đến tiểu luận, đảm bảo hạn chế bỏ sót những nội dung quan trọng nào. 
Phương pháp lịch sử: Tác giả sử dụng phương pháp này để triển khai nội dung về lịch sử vấn đề biên giới biển Việt Nam – Campuchia. Qua phương pháp này làm rõ được nguồn gốc sâu xa của vấn đề, phát hiện sợi dây lịch sử xuyên suốt vấn đề. Từ những logic của lịch sử để thấy được bản chất của vấn đề qua đó có cái nhìn trung thực khách quan nhất về những sự kiện lịch sử được đề cập trong đề tài.  
6.  Kết cấu tiểu luận 
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của tiểu luận được kết cấu thành 3 chương: 
Chương 1: Tổng quan pháp luật quốc tế về phân định biên giới 
biển. 
Chương 2: Thực tiễn về biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia. 
Chương 3: Phương hướng, giải pháp giải quyết vấn đề phân định biên giới biển giữa Việt Nam và Campuchia.
 
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI BIỂN. 
1.1  Khái niệm chung về phân định biển 1.1.1 Biên giới quốc gia trên biển 
Để hiểu được biên giới quốc gia trên biển một cách chính xác đầu tiên ta cần hiểu rõ biên giới quốc gia là gì? Theo phương diện pháp lý và địa lý, biên giới quốc gia chính là “phần bao bọc bên ngoài lãnh thổ quốc gia, là phên dậu, là “vỏ bao bọc liên tục của một tập hợp không gian của một quốc gia” hoặc là “điểm chấm dứt thẩm quyền thuộc về lãnh thổ của một quốc gia””2. Biên giới quốc gia là một yếu tố không thể thiếu để một thực thể được công nhận là một quốc gia. Đó được xem là “đường giới hạn” để phân định lãnh thổ của quốc gia này với quốc gia khác, hoặc với các vùng mà quốc gia có chủ quyền trên biển, để giới hạn chủ quyền của các quốc gia trong một phạm vi lãnh thổ xác định. Biên giới quốc gia bao gồm: Biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, biên giới quốc gia trong lòng đất và trên không. 
Biên giới quốc gia trên biển được hiểu là “Ranh giới giữa vùng biển thuộc chủ quyền hoàn toàn tuyệt đối của quốc gia với những vùng biển thuộc chủ quyền của các quốc gia khác hay với những vùng biển không thuộc chủ quyền quốc gia”. Theo quy định tại Điều 2 Luật Biển quốc tế năm 1982: “Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và các vùng nội thủy tới một vùng biển tiếp giáp với chúng, dưới tên gọi là lãnh hải và có bề rộng không vượt quá 12 hải lý”3. Ranh giới ngoài của lãnh hải được coi là đường biên giới quốc gia trên biển.  Đối với các quốc gia đối diện hoặc tiếp giáp nếu có lãnh hải chồng lấn thì biên giới trên biển sẽ được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc 
                                                          
 2Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh, năm 2013, Giáo trình Công pháp quốc tế,, tr 259. 3Xem Điều 2 Công ước quốc tế về luật biển 1982. 

 gia liên quan và được phân định bằng điều ước quốc tế. Trong trường hợp các bên liên quan không thỏa thuận được với nhau, luật pháp quốc tế không thừa nhận việc đơn phương xác định ranh giới ngoài của lãnh hải vượt quá đường trung tuyến hoặc đường cách đều là đường được tạo bởi các điểm cách đều các điểm gần nhất của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia liên quan, trừ trường hợp có danh nghĩa lịch sử hay hoàn cảnh đặc biệt. 
Nếu như đường biên giới quốc gia trên đất liền được đánh dấu bằng các cột mốc quốc giới cụ thể, thì đường biên giới quốc gia trên biển được công bố bằng các bản kê tọa độ địa lý của đường biên giới đó trong các hiệp ước phân định lãnh hải, hay gián tiếp bằng các bản kê tọa độ địa lý các điểm của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp. Biên giới trên biển được phân định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, của đảo và quần đảo được xác định phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế và điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia hữu quan. Hải đồ và các bản kê tọa độ địa lý các điểm này phải được công bố theo đúng thủ tục và gửi Liên hợp quốc để lưu chiểu. Tàu thuyền nước ngoài được phép “đi qua không gây hại”4 trong vùng lãnh hải. Tàu thuyền và máy bay được phép “đi quá cảnh” qua các dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế theo quy định của Luật Biển quốc tế năm 1982. 
1.1.2 Phân định biên giới biển 
Phân định biên giới là một trong những hoạt động đặc biệt liên quan đến chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ cũng như các yếu tố khác như dân cư, lịch sử, văn hóa, các quyền và lợi ích của quốc gia trong quan hệ 
                                                          
 4 Khoản 1 Điều 19 Luật Biển quốc tế 1982: “Việc đi qua là không gây hại, chừng nào nó không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua không gây hại cần phải được thực hiện theo đúng với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế”. Việc xác định biên giới phải dựa trên nguyên tắc tư nguyện, thỏa thuận, thương lượng trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, phải phù hợp với những nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế. Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 1 Điều 5  Luật Biên giới quốc gia năm 2003 quy định “Biên giới quốc gia được xác định bằng điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập hoặc do pháp luật Việt Nam quy định.”5 
Phân định biển là quá trình hoạch định đường ranh giới phân tách hai hay nhiều quốc gia có các vùng biển tiếp giáp nhau và không được phân tách bởi biển cả hoặc đáy biển. Việc phân định có mục đích: “Vạch một con đường chính xác hoặc nhiều con đường chính xác nơi gặp nhau của các vùng không gian tại đó thực hiện các quyền lực và quyền chủ quyền tương ứng”6 của hai quốc gia.  
Phân định biển là một hoạt động mang tính quốc tế: “Việc phân định các vùng biển luôn có khía cạnh quốc tế; nó không thể phụ thuộc vào ý chí duy nhất của một quốc gia ven biển như nó được thể hiện trong luật quốc nội. Nếu tuyên bố phân định nhất thiết là một hành vi đơn phương là đúng, bởi vì chỉ quốc gia ven biển mới có tư cách tiến hành điều đó thì ngược lại giá trị của việc phân định đó đối với các quốc gia thứ ba thuộc về pháp luật quốc tế”7. Việc xác định biên giới quốc gia trên biển không giống với việc xác định biên giới quốc gia trên bộ (chủ yếu là do sự tự thỏa thuận của các quốc gia hữu quan, việc hoạch định biên giới quốc gia trên biển phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của Luật Biển quốc tế 1982). Các quốc gia có biển thường phải xác định biên giới trong hai trường hợp sau: 
                                                          
 5 Xem khoản 1 Điều 5 Luật Biên giới quốc gia năm 2003. 6 Tuyển tập các phán quyết, quyết định, các ý kiến tư vấn của Tòa ICJ 1978, tr 35, khoản 85. 7 Vụ án ngư trường Anh- Na Uy ngày 18-12-1951, Tuyển tập các phán quyết, quyết định, các ý kiến tư vấn của Tòa ICJ 1978, tr. 132.
  
 Thứ nhất, khi hai quốc gia có toàn bộ hoặc một phần bờ biển đối diện hoặc liền kề nhau8. Đường biên giới phân định các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia này với vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia khác (vùng nội thủy và vùng lãnh hải). Việc xác định đường biên giới này phụ thuộc vào vị trí của hai quốc gia hữu quan. Trường hợp này, các quốc gia liên quan sẽ thỏa thuận xác định biên giới thông qua việc ký kết hiệp đinh phân định biên giới trên biển. Tùy vào việc hai quốc gia nằm  đối diện nhau hay tiếp giáp nhau mà  đường biên giới trên biển được xác định theo nguyên tắc đường trung tuyến hoặc đường cách đều nếu các bên không có thỏa thuận khác. Việc phân định trong trường hợp này cũng đã được Luật Biển quốc tế 1982 quy định như sau: “Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác”9. Ví dụ pháp luật Việt Nam quy định về việc hoạch định biên giới biển như sau: “Biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng các toạ độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam được xác định theo Luật Biển quốc tế năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan. Các đường ranh giới phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa xác định quyền chủ quyền, quyền tài phán của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Luật Biển 
                                                          
 8 Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh, năm 2013, Giáo trình Công pháp quốc tế,  tr 271. 9 Xem thêm Điều 15 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế 1982. 
 
quốc tế năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan”10. 
 Trường hợp thứ hai, toàn bộ hoặc một phần bờ biển của quốc gia này không đối diện hoặc tiếp giáp với bất kỳ quốc gia nào11, đường biên giới quốc gia trên biển không liên quan, đụng chạm tới các vùng biển của quốc gia khác. Có nghĩa là đường biên giới quốc gia trên biển chỉ nhằm phân định chính xác giới hạn lãnh thổ quốc gia đó với vùng biển tiếp liền không phải là lãnh thổ của quốc gia. Trong trường hợp này quốc gia ven biển dựa vào các quy định của luật Quốc tế (Luật Biển quốc tế 1982) và những đặc điểm riêng biệt của lãnh thổ quốc gia để đơn phương đưa ra những tuyên bố (công bố) chính thức đường cơ sở, chiều rộng lãnh hải từ đó người ta có thể biết chính xác đường biên giới trên biển của một quốc gia. Như vậy các quốc gia có quyền đơn phương tuyên bố ranh giới vùng biển của mình đến đâu, nhưng giá trị của các tuyên bố đó trong quan hệ quốc tế chỉ có thể có được khi việc đơn phương phân định này tuân theo những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và được luật quốc tế thừa nhận. Với sự ra đời và phát triển của Luật Biển quốc tế 1982, các quốc gia ven biển luôn tận dụng một cách tối đa các điều khoản của Công ước để mở rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, với cách giải thích khác nhau nhằm đem lại lợi ích tối đa cho quốc gia mình. 
1.2  Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế liên quan đến phân định biển 1.2.1 Nguyên tắc thỏa thuận 
Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong việc xây dựng biên giới quốc gia nói chung và phân định biển nói riêng. Phân định biên giới biển là 
                                                          
 10 Xem thêm Khoản 3 Điều 5 Luật Biên giới quốc gia năm 2003. 11Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Giáo trình Công pháp quốc tế, năm 2013, tr 272. 
 
một quá trình hết sức phức tạp, nó liên quan đến việc xác định giới hạn thụ đắc lãnh thổ để phân định ý nghĩa pháp lý của các hành động thực thi chủ quyền tài phán đối với vùng biển trên cơ sở pháp luật quốc tế của ít nhất hai quốc gia. Như đã đề cập, phân định biển là một hoạt động mang tính quốc tế, nó không thể phụ thuộc vào ý chí của một quốc gia và chỉ duy nhất áp dụng pháp luật của một quốc gia để tiến hành. Đường biên giới trong vùng biển có sự chồng lấn phải là đường được các quốc gia liên quan bàn bạc và cùng thỏa thuận hay cùng chấp nhận nếu việc giải quyết là do Toà án quốc tế thực hiện. Đường biên giới trong vùng biển chồng lấn do một bên đơn phương quy định chỉ được coi là một yêu sách, không có giá trị pháp lý quốc tế. Vì vậy, để tránh những tranh chấp phát sinh, tránh được việc chồng lấn các vùng biển các quốc gia liên quan cần thông qua quá trình đàm phán, thương lượng để thỏa thuận, tìm ra các phương pháp, một chuẩn chung cho việc phân định. Luật Biển quốc tế 1982 thông qua các quy định của mình luôn đưa nguyên tắc thỏa thuận lên hàng đầu. 
Thực tiễn xét xử tranh chấp chồng lấn các vùng biển, nguyên tắc thỏa thuận đã được Tòa án pháp lý quốc tế áp dụng như một nguyên tắc cơ bản để giải quyết. Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế trong vụ thềm lục địa vùng vịnh Maine 1984 ghi nhận “Sự phân định này Sự phân định này phải được mưu cầu và thực hiện qua một thoả thuận tiếp theo một cuộc đàm phán thiện chí với ý định thực tế đạt tới kết quả tích cực”12. Trong phán quyết về vụ thềm lục địa Biển Bắc năm 1969 Tòa án Công lý quốc tế cũng ghi nhận “Các bên phải tiến hành đàm phán nhằm đi đến một thoả thuận chứ không phải đơn thuần tiến hành một cuộc đàm phán hình thức, […]; các bên có nghĩa vụ xử sự sao cho đàm phán có ý nghĩa, đó 
                                                          
 12 Vụ thềm lục địa vùng vịnh Maine 1984, Tuyển tập các phán quyết, quyết định, các ý kiến tư vấn của Toà ICJ, tr 293-294. 

 không phải là trường hợp một khi một trong các bên khăng khăng giữ lập trường riêng của mình mà không trù liệu một sự điều chỉnh nào cả”13. 
Trong quá trình đàm phán, để đạt đến kết quả cuối cùng, để củng cố cho các lập luận của mình trong việc phân định các bên tham gia có thể nêu ra các yếu tố, hoàn cảnh cụ thể của lãnh thổ. Tuy nhiên, việc đàm phán, thương lượng cần phải dựa trên nguyên tắc công bằng, hợp lý, hợp tình và suy xét đến các hoàn cảnh thích đáng, có tính đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan không chỉ đối với các bên tranh chấp mà còn đối với cộng đồng quốc tế. Giải pháp do các quốc gia tự mình cùng nhau tìm ra thường có tính hợp lý, công bằng và bền vững hơn, dễ đi vào thực tiễn. 
Các bên trước hết phải cùng nhau xác định cụ thể khu vực chồng lấn phải giải quyết. Tiếp đó, để bảo đảm nguyên tắc công bằng, cần phải xem xét đến các hoàn cảnh đặc biệt có liên quan mà chủ yếu là các hoàn cảnh địa lý tự nhiên như hình thái đường bờ biển liên quan, chiều dài của hướng chung của đường bờ biển của các bên, sự hiện diện của các đảo ở khu vực biển liên quan. Các đảo, tuỳ vị trí, kích thước, tuỳ thoả thuận của các quốc gia liên quan sẽ có hiệu lực khác nhau khi các bên vạch đường biên giới. Về mặt pháp lý, các yếu tố về kinh tế như tài nguyên, truyền thống khai thác và sử dụng biển, nhu cầu giao thông hàng hải … không phải là các yếu tố trực tiếp liên quan đến việc vạch đường biên giới. Tuy nhiên, khi giải quyết, để bảo đảm tính hợp lý và công bằng, phù hợp với các quy định về cho phép đánh bắt hải sản dư thừa trong vùng đặc quyền về kinh tế, về sự khuyến khích các quốc gia liên quan hợp tác bảo vệ tài nguyên và vùng biển, tính đến lợi ích chính đáng của người dân sinh sống ở vùng biển liên quan, giữ gìn hoà bình và ổn định trên biển, các quốc gia liên quan thường tính đến các yếu tố trên khi bàn bạc giải quyết.  
                                                          
 13  Vụ thềm lục địa Biển Bắc năm 1969, Tuyển tập các phán quyết, quyết định, các ý kiến tư vấn của Toà ICJ 1969, tr 85. 

1.2.2  Nguyên tắc công bằng 
Nguyên tắc công bằng được sử dụng như là một trong những nguyên tắc cơ bản và nền tảng của pháp luật quốc tế nói chung và Luật Biển quốc tế nói riêng. Trong lĩnh vực luật biển, nguyên tắc này được hình thành và phát triển cùng với thực tiễn phân định thềm lục địa và các vùng biển giữa các quốc gia láng giềng cũng như tiến trình phát triển của Luật Biển quốc tế với những dấu mốc quan trọng về các hội nghị quốc tế về luật biển, cùng với sự ra đời của các Công ước Geneva năm 1958, Luật Biển quốc tế năm 1982. Luật Biển quốc tế 198214 thông qua các quy định tại Điều 15, Điều 59, Điều 74 và Điều 83 đã quy định thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan đến một vụ phân định biển phải đi đến giải pháp công bằng.  
Thực tiễn xét xử của Tòa án Công lý quốc tế, trong vụ thềm lục địa Biển Bắc năm 1969, đã đưa ra phán quyết chứa đựng nhiều điểm quan trọng trong đó bao gồm định nghĩa quan trọng về khái niệm công bằng và những yếu tổ ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này trong phân định như tỷ lệ giữa các khu vực thềm lục địa được phân định với chiều dài bờ biển, các vấn đề về các đặc điểm của bờ biển tác động tới đường trung tuyến, về bản chất của thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ lục địa… Tòa cũng đã cho rằng phương pháp đường trung tuyến tuyệt đối (chia đều) không phải là bắt buộc đối với các bên15.  
Từ những quy tắc được quy định trong Luật Biển quốc tế 1982 và thực tiễn phân định, nguyên tắc công bằng trong việc phân định biển gồm những nội dung sau đây:  
Thứ nhất, nguyên tắc công bằng ở đây được hiểu không nhất thiết phải là bằng nhau về mặt diện tích phân định; mà “công bằng” phải phản 
                                                          
 14 Điều 15, Điều 59, Điều 74 và Điều 83 Luật Biển quốc tế 1982. 15 International Court of Justice, Report of North Sea Continental Shelf case, Judgment of 20 February, 1969. 

ánh đúng thực trạng các hoàn cảnh đặc thù trong khu vực có ảnh hưởng đến việc phân định như: sự tồn tại của đảo trong khu vực phân định; hình dạng bờ biển; sự có mặt của yếu tố lịch sử;… Cụ thể thực tiễn, trong phán quyết của Toà án Công lý quốc tế về phân định Thềm lục địa Biển Bắc ngày 20/02/1969, Tòa đã đưa ra nguyên tắc khi phân định biển: “Công bằng không có nghĩa nhất thiết phải bằng nhau”. Tòa cũng đã nêu ra một số khả năng áp dụng nguyên tắc công bằng. Lưu ý rằng phải xem xét để đảm bảo các quốc gia sẽ áp dụng các phương thức công bằng một cách tự do, không có giới hạn, từ đó đưa ra một sự cân bằng hợp lý. Công bằng trong phân định yêu cầu không được sửa chữa lại tự nhiên vốn có để đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng các vùng biển mà họ đáng được hưởng một cách công bằng có tính tới mọi hoàn cảnh liên quan có liên quan trong khu vực phân định. 
Thứ hai, “công bằng” cũng có thể được nhìn nhận dưới khía cạnh phản ánh kết quả phân định biển được coi là “có thể chấp nhận” giữa các bên dựa trên việc tính tỷ lệ giữa chiều dài bờ biển với diện tích phân định mặc dù trong quá trình thỏa thuận phân định, các bên đã thực hiện những trao đổi, nhượng bộ mang tính chính trị – ngoại giao hoặc pháp lý khác nhau. Ở phương diện này, cũng dễ tồn tại những mặt hạn chế sự công bằng thực chất dễ bị lạm dụng và xâm phạm, đặc biệt trong phân định vùng chồng lấn giữa một bên là quốc gia lớn, bên còn lại là quốc gia nhỏ yếu. 
Thứ ba, việc thỏa thuận hợp tác khai thác tài nguyên tại vùng chồng lấn cùng khai thác và phân chia nguồn lợi khai thác, trong đó có tính đến tỷ lệ đóng góp và trách nhiệm giữa các bên. Ngoài ra, các bên cũng không được thực hiện những hành vi “có thể gây phương hại” hoặc cản trở việc đạt tới một thỏa thuận phân định cuối cùng được dựa trên nguyên tắc công bằng. 

1.3  Cơ sở pháp lý để xác lập đường biên giới quốc gia trên biển 
Phân định biên giới, đặc biệt phân định biên giới biển giữa các quốc gia là một vẫn đề hết sức phức tạp do vậy các quy phạm quốc tế về luật biển dành chủ yếu để phân định các vùng biển giữa các quốc gia, tạo ra công cụ hiệu quả để các quốc gia có thể thương lượng, thỏa thuận vùng biển chồng lấn có cơ sở. Các căn cứ pháp lý bao gồm các Điều ước quốc tế, song phương, đa phương như: 
Cơ sở pháp lý đầu tiên phải kể đến để xác lập đường biên giới quốc gia trên biển là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (Luật Biển quốc tế 1982) được 107 quốc gia ký kết trong đó có Việt Nam vào ngày 30/4/1982. Đây là một văn  bản  pháp lý quốc tế quan trọng quy định về các vùng biển mà  các quốc gia ven biển có quyền được hưởng cũng như việc sử dụng và khai thác biển và đại dương. 
Các điều ước song phương ký kết giữa các quốc gia về vấn đề phân định biên giới trên biển và phân định các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia hay quyền chủ quyền quốc gia. Ví dụ giữa Việt Nam và Campuchia có Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia năm 1982, giữa Việt Nam và Trung Quốc có ký hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ có hiệu lực từ ngày 30/6/2004… 
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói chung và Luật Biển quốc tế nói riêng như nguyên tắc công bằng, nguyên tắc thỏa thuận trong phân định biên giới trên biển, nguyên tắc đất thống trị biển, nguyên tắc xác lập chủ quyền bằng chiếm hữu, nguyên tắc Uti possidetis… 
Ngoài các tập quán quốc tế, án lệ, học thuyết, quan điểm của các nhà luật học nổi tiếng thế giới…tuy không phải là nguồn luật chính thống và 
 phổ biến nhưng cũng là cơ sở để các quốc gia dựa áp dụng, tham khảo khi tiến hành phân định biên giới biển. 
Như vậy, việc phân định biên giới biển giữa các quốc gia  phải dựa trên các nguồn luật của quốc tế kể trên để làm cơ sở pháp lý về xác lập các đường biên giới trên biển. 
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI TRÊN BIỂN GIỮA VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA. 
2.1 Khái quát chung vùng biển Việt Nam – Campuchia 
Vùng biển Việt Nam – Campuchia nằm trong vịnh Thái Lan, là phần phía Tây của biển Đông, tạo thành một vùng lõm rộng trên bờ biển phía Nam của lục địa Đông Dương, trải dài từ vĩ tuyến 5° đến 14° Bắc và từ kinh tuyến 99° đến 105° Đông và kết thúc ở phía Bắc Đông Bắc ở mũi Cà Mau tại 8°36’ Bắc – 102°21’ Đông. Vùng biển Việt Nam – Campuchia là một biển nửa kín, với diện tích khoảng 300.000 km2, giới hạn bởi bờ biển của bốn nước Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Campuchia. Vịnh thông ra biển Đông ở phía Nam bằng một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng 400km (215 hải lý). Vịnh khá dài (chừng 450 hải lý) nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung bình là 385km (208 hải lý). Ngoài ra vịnh có khoảng 200 đảo, đảo nhỏ chủ yếu tập trung vào phần phía Đông và gần bờ biển. Đó là yếu tố làm phức tạp hóa không những việc phân định ranh giới các vùng biển giữa Việt Nam và Campuchia mà còn cả đối với việc phân định biển giữa một bên là Campuchia và Việt Nam với bên còn lại là Thái Lan16. 
Vùng biển giữa Việt Nam – Campuchia trong vịnh Thái Lan có trên 100 đảo lớn nhỏ như Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu (Poulo Panjang), đảo Wai (Poulo Wai), quần đảo Hải Tặc, đảo Phú Dự, hòn Tiên Mới… Trừ 
                                                          
 16 Phạm Thị Hồng Phượng, Lịch sử vùng biển Việt Nam – Campuchia, Tạp chí  Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4(29), 2006, tr 69-76. 

đảo Phú Quốc có diện tích lớn 600 km2, còn lại chủ yếu các đảo có diện tích nhỏ: đảo Thổ Chu khoảng 10 km2, đảo Phú Dự 25 km2, Hòn Dứa 6 km2, các đảo còn lại có diện tích từ vài trăm mét vuông đến 1- 2 km2. Độ sâu khu vực giữa các đảo không cao, giữa Thổ Chu và đảo Phú Dự trung bình là 20m, quanh quần đảo Thổ Chu độ sâu lớn nhất là 40m. Như vậy, nếu mực nước hạ đi 40m, vùng biển gần bờ biển phía Đông của vịnh Thái Lan, nằm giữa đảo Koh Rong, Koh Phao (Campuchia), Hòn Trọc, quần đảo Hòn Khoai sẽ là một đồng bằng rộng lớn, các đảo trong vùng trở thành các núi nhỏ, đảo cao nhất không quá 100m. 
Vùng biển chung giữa Việt Nam và Campuchia trong vịnh Thái Lan có vai trò và tầm quan trọng đặc biệt đối với cả hai quốc gia. Nơi đây có những đặc điểm về tự nhiên nhiều rặng san hô tự nhiên và thắng cảnh đẹp, nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng về cả số lượng và chất lượng. Những lợi ích về giao thông mà vùng biển này mang lại tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông trên biển của các quốc gia có liên quan nhằm giao lưu, buôn bán, thông thương với các quốc gia khác và với các vùng biển ngoài Vịnh. Chính tầm quan trọng về về trí địa lý, lợi ích kinh tế của nơi này nên việc tranh chấp về xác lập chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia là không tránh khỏi. 
2.2  Lịch sử vấn đề biên giới biển Việt Nam – Campuchia 
Lịch sử quan hệ Việt Nam – Campuchia đã có từ lâu, từ giai đoạn Việt Nam mới giành được độc lập và tiếp sau đó Chính phủ hai nước vẫn tiếp tục thảo luận, bàn bạc để tìm giải pháp giải quyết những vấn đề do lịch sử để lại, đặc biệt là vấn đề biên giới lãnh thổ. Lịch sử thời phong kiến cho thấy tỉnh Hà Tiên, do một người Trung Quốc là Mạc Cửu khai phá, ông đã đặt tỉnh dưới quyền của An Nam vào đầu thế kỷ XVIII. Các cuộc viễn chinh của các tướng lĩnh của chúa Nguyễn cử đến tiếp ứng chính quyền Mạc Cửu, chống bọn giặc cướp trong vịnh Xiêm đã dẫn đến việc sáp  
nhập nhiều đảo trong vùng vào đất của Triều đình. Sau khi chính quyền của gia đình Mạc Cửu kết thúc, các đảo đó phụ thuộc vào Hà Tiên khi đảo được tổ chức thành trấn (tỉnh được quân đội quản lý) từ năm 1810. Từ năm 1820, Vua Minh Mạng cho khai phá các đảo và di dân đến đó. Năm 1825, huyện Hà Tiên sáp nhập vào tỉnh An Biên cho đến năm 1832, thời điểm Hà Tiên được nâng lên thành tỉnh17. Năm 1858, lấy lý do vua Tự Đức – Hoàng đế Việt Nam (1840-1885), ngược đãi các đoàn truyền đạo Cơ đốc, quân đội Pháp đánh chiếm Việt Nam. Việt Nam thua trận, phải ký Hiệp ước 1874 nhường cho Pháp 6 tỉnh ở Nam Kỳ, trong đó có tỉnh Hà Tiên, kể cả các đảo thuộc tỉnh này. 
Thực dân Pháp thiết lập chính quyền thuộc địa và chính quyền bảo hộ ở Nam Kỳ (năm 1867) và Campuchia (năm 1863), theo đó tất cả các đảo trên vùng biển giữa Nam Kỳ và Campuchia đều thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trong bản báo cáo tháng 1-1869, viên thanh tra Pháp Chessez đã viết ‘’Ngay cả đảo Phú Dự cách bờ biển Campuchia 0,5 hải lý và đảo Tiên Mới cách đảo Phú Dự 1 hải lý cũng đều thuộc một làng Việt Nam”. Vì vậy, sau thời gian khảo sát, ngày 25-5-1874 Thống đốc Nam Kỳ đã ký Nghị định thành lập một quận biển trực thuộc chính quyền Nam Kỳ bao gồm các đảo thuộc trấn Hà Tiên. Trong một thời gian dài, từ thế kỷ XVIII (năm 1715) đến tận đầu thế kỷ XX (năm 1913), vấn đề chủ quyền các đảo trong vịnh Thái Lan đã không hề được nêu ra cho đến khi người Pháp đến. Căn cứ vào Hiệp ước Hòa bình giữa vua An Nam và nước Pháp ngày 15 tháng 3 năm 1874, các đảo đó từ trước đã thuộc sở hữu của vương quốc An Nam và chúng được chuyển giao cho nhà cầm quyền Pháp. Ngày 25 tháng 5 năm 1874, hai tháng sau khi có Hiệp ước, Chuẩn đô đốc, quyền Thống đốc và Tổng tư lệnh Jules François Émile Krantz, công bố Nghị định N°124 tách đảo Phú Quốc và các đảo lân cận khác ra khỏi hạt 
                                                          
 17 Lê Trung Dũng, Quá trình phân định biên giới giữa Nam Bộ Việt Nam và Campuchia từ giữa thế kỷ XIX đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 10-11, 2006. 

Hà Tiên để lập thành một quận riêng biệt18. Sau đó, một Nghị định thứ 2 ngày 16 tháng 6 năm 1875, lại sáp nhập vào quận Hà Tiên, do CharlesMarie Duperré, Chuẩn đô đốc, Thống đốc và Tổng Tư lệnh ký tên. Như vậy, kể từ thời điểm nói trên các ranh giới của lãnh thổ Phú Quốc đã được xác định rõ, do đó chúng ta có thể xác định dễ dàng và với tất cả sự chính xác cần thiết danh mục các đảo đã bị Pháp thôn tính khi họ đóng vùng Hạ Nam Kỳ để thi hành Hiệp ước 1874. Trong khi đó, phía Campuchia không có yêu cầu nào đối với bất kỳ đảo nào và chủ quyền của các đảo đã không được nêu ra khi ký Hiệp ước1907 giữa Pháp và Xiêm (Thái Lan), theo đó đại diện nước Pháp với tư cách là Toàn quyền Đông Dương chứ không phải là với danh nghĩa bảo hộ Campuchia, nhường cho Xiêm tất cả các đảo ở phía Bắc mũi Lemline, kể cả đảo Koh Kut. 
 Năm 1913, bắt đầu nảy sinh các tranh chấp về thẩm quyền đặc nhượng khai thác tài nguyên và quyền thu thuế, việc bảo vệ trị an trên các đảo nằm dọc theo bờ biển Việt Nam – Campuchia. Để giải quyết dứt điểm vấn đề thuế khóa và tạo thuận lợi cho quản lý hành chính, ngày 31 tháng 01 năm 1939, Toàn quyền Đông Dương đã gửi một bức thư cho Thống đốc Nam Kỳ vạch một đường kinh tuyến Bắc một góc 140°G, đường đó vòng qua Bắc đảo Phú Quốc cách các điểm nhô ra nhất của bờ phía Bắc đảo Phú Quốc 3km (trong thư không nói rõ đường đó chấm dứt ở đâu). Tất cả các đảo ở phía Bắc con đường này từ nay sẽ do Campuchia quản lý; tất cả các đảo phía Nam con đường này, kể cả toàn bộ đảo Phú Quốc sẽ tiếp tục do Nam Kỳ quản lý19. Tuy nhiên, đến nay cả hai bên Việt Nam và Campuchia đều không có bản đồ thể hiện đường Brévié kèm theo bức thư trên. Cũng vì vậy hiện nay có bốn cách thể hiện khác nhau về đường Brévié: 
                                                          
 18 Điều 1 của Nghị định N°124 và bản đồ mô tả nội dung của Điều 1 Hiệp ước hòa bình giữa vua An Nam và nước Pháp 15-3-187 4. 19 Bức thư số 867 – API quyết định vạch một đường phân chia quyền quản lý hành chính và cảnh sát giữa hai Nam Kỳ và Campuchia của Toàn quyền Đông Dương, ngày 31 tháng 1 năm 1939.
 – Trong luận án tiến sỹ của Sarin Chhak, Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia thời Sihanouk, đường Brévié được thể hiện không phải là một đường liên tục mà là một đường đứt đoạn với 4 đoạn cách nhau khá xa. 
– Bộ Tư lệnh Hải quân Sài Gòn (Việt Nam Cộng hòa) khi công bố đường ranh giới tuần tiễu trên biển đã thể hiện đường Brévié chấm dứt ngay ở Đông Bắc Phú Quốc. 
– Tiến sĩ Mark J. Valencia thuộc trung tâm Đông – Tây của Hoa Kỳ trong một cuốn sách xuất bản năm 1985 đã thể hiện đường Brévié theo các đoạn thẳng, cách các điểm nhô ra nhất của đảo Phú Quốc 3km. Đây cũng là cách mà Nicholas Prescott, giáo sư người Australia thể hiện trong một cuốn sách xuất bản năm 1981. 
– Cách thứ tư là cách vẽ của chính quyền Pol Pot khi công bố bản đồ nước Campuchia tháng 8 năm 1977. Đây là cách thể hiện xa rời câu chữ của bức thư Brévié nhất: trong thư viết “đường Brévié vòng qua Bắc đảo Phú Quốc, cách điểm nhô ra nhất của bờ Bắc đảo Phú Quốc 3km” thì sơ đồ này đã thể hiện đường Brévié vòng từ phía Bắc đảo rồi trở lại về phía Đông Nam đảo theo một đường liên tục, điểm nào cũng cách bờ biển Phú Quốc 3km. 
Như vậy, từ đầu thế kỷ XVIII cho đến trước năm 1939, về lịch sử và pháp lý, toàn bộ các đảo giữa Việt Nam và Campuchia thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chỉ từ năm 1939, Campuchia mới chính thức quản lý về mặt hành chính và cảnh sát các đảo ở phía Bắc đường Brévié. Tuy vậy, chính quyền Nam Kỳ và sau đó là chính quyền Sài Gòn không chấp nhận, vẫn coi các đảo Wai, Phú Dự, Tiên Mối và nhóm Bắc Hải Tặc thuộc chủ quyền Việt Nam. Đến năm 1956, Campuchia đưa quân ra chiếm đảo Phú Dự, chiếm nhóm đảo Bắc Hải Tặc năm 1958 và đảo Wai năm 1966. 
Năm 1957, Quốc vương Campuchia ra sắc lệnh quy định đường cơ sở thẳng của Campuchia là đường nối liền các điểm chuẩn trên đất liền và các đảo ven bờ của Campuchia và quy định lãnh hải của Campuchia là 5 hải lý. Sắc lệnh này cũng quy định ranh giới trên biển với các quốc gia kế cận là đường vuông góc với đường cơ sở kéo ra biển 5 hải lý (đối với Việt Nam, đường này còn lệch về phía Việt Nam hơn so với đường Brévié), ranh giới ngoài thềm lục địa của Campuchia là đường đẳng sâu 50 m. 
Trong năm 1972, chính quyền Lonnol ra Sắc lệnh về ranh giới thềm lục địa số 439 – 72/PRK ngày 1 tháng 7 năm 1972 và Sắc lệnh quy định hệ thống đường cơ sở và lãnh hải Campuchia số 518 – 72/PKR ngày 12 tháng 8 năm 1972 quy thuộc các đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam vào lãnh thổ Campuchia. Năm 1976, chính quyền Campuchia Dân chủ nêu yêu sách lấy đường Brévié làm đường biên giới biển giữa hai nước vì theo họ “đường này đã được sử dụng như đường biên giới trong gần 40 năm qua”. Cũng trong năm 1976, ta đã chính thức trao lại đảo Wai cho Campuchia. Ngày 31 tháng 7 năm 1982, Cộng hoà Nhân dân Campuchia đã ra tuyên bố hệ thống đường cơ sở thẳng bao gồm cả các đảo nằm xa bờ như đảo Wai. Ngày 7 tháng 7 năm 1982, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa hai nước, trong đó thoả thuận “lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong khu vực này” và “sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước”20. Đây là lần đầu tiên hai nước thừa nhận chủ quyền của các bên đối với các đảo giữa hai nước. Hiệp định này đã nâng đường Brévié từ ranh giới quản lý hành chính và cảnh sát thành đường phân chia chủ quyền đảo giữa hai nước nhưng cũng xác nhận giữa hai nước chưa có đường biên giới biển.  
                                                          
 20 Xem Điều 3 Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia ngày 7 tháng 7 năm 1982. 
 
Qua những mốc quan trọng của lịch sử hai nước đối với vấn đề trên biển Việt Nam – Campuchia nêu trên, vấn đề tồn tại đang được giải quyết giữa Việt Nam và Campuchia hiện nay là tranh chấp biển Việt Nam – Campuchia chủ yếu xoay quanh tính pháp lý của đường Brévié trong phân định biên giới mà thời gian tới cần sự nỗ lực và hợp tác thiện chí của cả hai bên để sớm đạt được những đồng thuận. 
2.3 Thực tiễn giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia 
 2.3.1 Quan điểm giải quyết của Việt Nam 
Việt Nam mong muốn giải quyết triệt để song song vấn đề phân định biên giới trên bộ và trên biển. Trên thực tế Việt Nam khẳng định đường Brévié chưa bao giờ được công nhận là một đường biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia. Thực tiễn cho thấy, từ sau ngày giải phóng đến nay, trong tiềm thức và ý chí của nhà cầm quyền cũng như nhân dân hai nước đường Brévié không tồn tại như một đường biên giới trên biển. Nghị định số 104/1368 của Bollaert, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, ban hành ngày 13 tháng 4 năm 1948 về hàng hải và đánh cá cũng không coi đường Brévié là đường ranh giới trên biển. Nội dung này quy định rõ tại Điều 7 “Vùng biển Nam Kỳ bao gồm lãnh hải và vùng tiếp giáp của đảo Phú Quốc thuộc Nam Kỳ”21. Trong Điều 6 của nghị định này cũng quy định “lãnh hải có chiều rộng 3 hải lý và vùng tiếp giáp là 20 km tính từ mực nước triều thấp nhất”22. Và ngay cả bản thân Sarin Sahk (sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Campuchia), cũng không coi đường Brévié là đường biên giới biển. Trong luận án tiến sĩ của mình, được Hoàng thân Sihanouk viết lời tựa và xuất bản tại Pari năm 1966, Sarin Sahk đã viết 
                                                          
 21 Xem thêm Điều 7 Nghị định số 104/1368 của Bollaert, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, ban hành ngày 13 tháng 4 năm 1948 về hàng hải và đánh cá. 22 Xem thêm Điều 6 Nghị định số 104/1368 của Bollaert, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, ban hành ngày 13 tháng 4 năm 1948 về hàng hải và đánh cá. 

“Câu cuối cùng của thông tư này quá rõ ràng. Vấn đề chủ quyền được bảo lưu. Nhưng nếu vấn đề này được bảo lưu thì điều đó không có nghĩa là nó được coi như có lợi cho nước này hay nước kia. Vấn đề còn treo lại, hoàn toàn được treo lại”.Đó là một minh chứng trong việc áp dụng nguyên tắc Uti Possidetis cho đường Brévié, một sự hữu hiệu đã trải qua hàng chục năm. Hơn nữa, liệu đường Brévié có phải là “biên giới trên biển công bằng và hợp lý” nếu nó tạo thành một cái túi chiều rộng 3 km gần như hoàn toàn bao lấy đảo Phú Quốc, không tính đến các lợi ích kinh tế và an ninh?23  
Sở dĩ Việt Nam không chấp nhận đường Brévié làm đường biên giới biển giữa hai quốc gia vì: 
Thứ nhất, đường Brévié không được ghi nhận trong một văn bản mang tính pháp lý. Nó chỉ được đề cập đến trong một bức thư (lettre) của Toàn quyền Đông dương gửi cho Thống đốc Nam Kỳ và Khâm sứ Pháp ở Campuchia. Văn bản đó chỉ có mục đích giải quyết vấn đề phân định quyền hành chính và cảnh sát đối với các đảo, không giải quyết vấn đề lãnh thổ. Trong bức thư của Toàn quyền Đông Dương cũng đã nói rõ “Đương nhiên là ở đây chỉ đề cập vấn đề hành chính và cảnh sát, còn vấn đề quy thuộc lãnh thổ của các đảo này hoàn toàn được bảo lưu”24. 
Thứ hai, khi đăng bức thư của Toàn quyền Đông Dương, Khâm sứ Campuchia đã cắt bỏ một đoạn nội dung của bức thư khẳng định việc hoàn toàn bảo lưu vấn đề quy thuộc lãnh thổ. Thống đốc Nam Kỳ đã không cho đăng bức thư của Toàn quyền Đông Dương Brévié trong Công báo. Vì bức thư không được đăng trong Công báo Đông Dương và Công báo Nam Kỳ, bản được đăng ở Công báo Campuchia lại không theo đúng nguyên bản nên cho đến nay cả ta và Campuchia đều chưa tìm thấy sơ đồ 
                                                          
 23 Khoản 2 Điều 121 Luật Biển quốc tế 1982. 24 Bức thư của Toàn quyền Đông dương 
 
của đường Brévié đính kèm theo bức thư của Toàn quyền Đông Dương. Chính vì các lẽ đó, như đã đề cập ở trên, hiện nay ít nhất lưu hành 4 cách thể hiện đường Brévté khác nhau: đường của Pôn Pốt, đường của Chính quyền miền Nam Việt Nam, đường của ông Sarin Chhak, đường của các học giả Hoa Kỳ. 
Thứ ba, nếu chuyển đường Brévié thành đường biên giới biển thì không phù hợp với pháp luật quốc tế, thực tiễn quan hệ quốc tế và sẽ mang lại nhiều bất lợi cho Việt Nam. Vì theo pháp luật quốc tế hiện hành, một đường biên giới phải được vạch ra một cách rõ ràng và dứt khoát chứ không thể không có điểm kết thúc như đường Brévié. Nó cho một hướng, một con đường vạch tưởng tượng căn cứ vào đó người ta có thể xác định những đảo nào nằm ở bên này, những đảo nào nằm ở bên kia. Nó không bị hạn chế bởi khoảng cách như trường hợp ranh giới biển như quy định tại Điều 2 Luật Biển quốc tế 198225. 
Việc xác định biên giới phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận, thương lượng trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, phải phù hợp với những nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế. Dựa trên tinh thần các nguyên tắc của luật quốc tế khi phân định vùng biển giữa các nước, Việt Nam đã đề nghị hai bên thoả thuận áp dụng Luật Biển quốc tế, tham khảo thực tiễn quốc tế, tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trên vùng biển hai nước để đi đến một giải pháp công bằng trong việc phân định vùng biển của cả hai nước. Điều này đã được khẳng định trong Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ngày 12 tháng 5 năm 1977 của Chính phủ Việt Nam tại Điều 7 của Tuyên bố quy định: “Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ cùng các nước liên quan, thông qua thương 
                                                          
 25 Điều 2 Luật Biển quốc tế 1982 quy định: “Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải (merterritoriale)”. 

 lượng trên