Trang phục dân tộc và tên 54 dân tộc Việt Nam

Xin được giới thiệu tới các bạn trang phục dân tộc  và tên 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Đây là các trang phục lễ hội truyền thống và các trang phục mặc thường ngày của họ.

Trang phục dân tộc và tên 54 dân tộc việt nam

Dân tộc Dao

Người Dao hiện có hơn 820 nghìn người, hiện có nhiều nhóm cư trú ở nhiều địa phương khác nhau. Tập trung đông nhất ở những tỉnh Thành Phố Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên … Người Dao chia thành nhiều nhánh như : Dao đỏ, Dao tiền … Sự phân biệt này bộc lộ khá rõ trên trang phục dân tộc Dao. Ví dụ phụ nữ Dao đỏ, đội khăn đỏ, mặc áo dài xẻ ngực, áo yếm quần tràm .

Dân tộc Bố Y

Là cộng đồng khoảng 2000 người, sống chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang. Phụ nữ Bố Y mặc váy xòe. Hoa văn trên váy là nền trắng của vải, sau được phủ lớp sáp ong khi váy nhuộm tràm tạo nên. Nam giới Bố Y mặc áo cổ truyền tứ thân, áo ngắn .

Dân tộc Tày

Có hơn 1,6 triệu người cư trú đa phần ở Cao Bằng, TP Lạng Sơn, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Quảng Ninh, Tỉnh Lào Cai, Hà Giang. Trang phục truyền thống cuội nguồn của người Tày làm từ vải truyền thống lịch sử sợi bông tự dệt, nhuộm tràm, hầu hết không thêu thùa trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần có áo ngắn bên trong, áo dài bên ngoài. Nam giới mặc quần dài, may chân khỏe, cạp lá tọa

Dân tộc Thái

Người Thái còn được gọi là Táy hoặc Thay. Dân tộc Thái có khoảng chừng 1,5 triệu người. Được chia làm 2 loại : Thái Đen, Thái Trắng. Tập trung đa phần ở những tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, Nghệ An, Lâm Đồng, Tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa. Trang phục dân tộc của người Thái là áo lụa, váy lụa có hàng khuy bạc óng ánh, mềm mịn và mượt mà. Chủ yếu màu tràm với nhiều hoa văn rực rỡ .

Dân tộc Cống

Có khoảng chừng 2600 cư trú tập trung chuyên sâu hầu hết huyện Mường Tè – Lai Châu, Mường Nghé – Điện Biên. Trang phục truyền thống cuội nguồn phụ nữ là váy quấn phía trước dài ngang bắp chân, áo ngắn rộng trùm ra ngoài cạp váy .

Dân tộc Hà Nhì

Tập trung đa phần ở những tỉnh phía Bắc. Hiện nay có khoảng chừng hơn 25 nghìn người .

Dân tộc Lự

Sinh sống ở vùng Tây Bắc, hầu hết ở vùng Điện Biên, Lai Châu. Người Lự sống thành bản nhỏ, ở nhà sàn 4 mái lợp tranh. Trang phục của phụ nữ Lự là áo chàm ngắn thắt ngang sống lưng, thân rộng, hai bên tay áo có một thanh vài màu trắng, thêu chỉ đỏ, váy may rộng, quấn khăn dài trang trí nhiều màu. Nam giới mặc quần áo màu tràm, đen, áo cánh xẻ ngực, quần từ đầu gối trở xuống ống hơi hẹp .

Dân tộc Mảng

Chủ ở Lai Châu với khoảng chừng hơn 4000 người. Trang phục phụ nữ Mạn có váy trắng trùm xuống chân, áo váy xẻ ngực, đầu để trống không đội khăn .

Dân tộc Si la

Có khoảng chừng hơn 800 người, cư trú ở miền Tây Bắc nước ta. Chủ yếu ở Mường Tè – Lai Châu. Trang phục dân tộc truyền thống người Sila có nhiều nét độc lạ, phong phú và đa dạng. Phụ nữ mặc váy ngắn hở bụng, áo gắn đồng xu, cài khuy phía nách phải và ngực khác màu, cổ áo và tay áo trang trí họa tiết khác nhau, váy màu đen hoặc màu tràm không thuê thùa phía mặt sau sống lưng .

Dân tộc La Hủ

Tên gọi dân tộc La Hủ có nghĩa là con hổ. Có những nhóm La Hủ Sư, La Hủ Na, La Hủ Phung. Có khoảng chừng 10000 người. Tập trung đa phần ở Mường Tè – Lai Châu. Người La Hủ giỏi thủ công bằng tay đan lát và nghề Dệt. Người đàn ông và đàn bà La Hủ mặc áo dài trùm xuống chân. Áo của phụ nữ có tay hẹp, nhiều màu bùng cháy rực rỡ, trên áo đính nhiều đồng xu, dây chỉ màu .

Dân tộc Kháng

Cư trú tập trung chuyên sâu hầu hết ở miền Tây Bắc nước ta, với khoảng chừng hơn 11000 người tập chung đa phần ở Lai Châu, Sơn La, Điện Biên. Trang phục của phụ nữ mặc áo ngắn có hàng cúc bạc, váy đen, đội khăn piêu. Nam mặc quần áo màu chàm nhiều lúc cũng đội khăn .

Dân tộc La Ha

Có khoảng chừng 8000 người cư trú hầu hết ở Lai Châu, Sơn La. Họ sống thành từng bản hoặc xen kẽ với những dân tộc khác. Ngày xưa nữ La Ha nhuộm răng đen và ăn trầu. Đàn ông có búi tóc sau gáy. Trang phục nam đa phần là màu chàm. Nữ mặc váy ngắn với hai hàng khuy bạc hình bướm, váy đen, có đội khăn trên đầu .

Dân tộc Lào

Có khoảng chừng 15000 người, cư trú xen kẽ ở những dân tộc khác ở Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa. Trang phục dân tộc của đàn ông lào là quần dài, áo cộc. Phụ nữ Lào mặc áo khuy bụng cài thưa, hai bên nách áo đính vài đỏ, đeo lúc lắc hạt trám bằng bạc trạm trổ, váy quấn ngang kín ngực, áo mặc phủ ra ngoài cạp váy, đội khăn piêu .

Dân tộc Xinh Mun

Dân số khoảng chừng hơn 20000 người, cư trú đa phần ở những tỉnh Sơn La, Lai Châu. Trang phục nữ có áo thân ngắn đến ngang eo, cổ cao, tay áo bó sát tới mắt cá tay, có hàng huy chính giữa trước ngực, hàng khuy làm bằng bạc, đồng, nhôm áo mặc hở thắt lưng và bó sát người .

Dân tộc Khơ Mú

Sinh sống trên những vùng núi Tây Bắc, tại những tỉnh Sơn La, Lai Châu, Tỉnh Lào Cai, Yên Bái và miền tây tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa với khoảng chừng 88700 người. Người Khơ Mú có nền văn hóa truyền thống dân gian độc lạ. Bao gồm những truyện kể dân gian, làn điệu dân ca, những điệu múa rực rỡ. Trang phục truyền thống lịch sử của phái đẹp Khơ Mú thường mặc áo màu đen, đằng trước thường gắn hàng khuy bạc hình chữ nhật hoặc vải màu .

Dân tộc Mường

Cư trú đa phần ở Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Sơn La, Yên Bái, Tỉnh Ninh Bình. Dân số 1,2 triệu người. Trang phục dân tộc của phụ nữ có hoa văn tinh sảo, có nét tương đương với họa tiết trống đồng Đông Sơn. Phụ nữ có áo yếm, áo bong bó sát, áo ngắn áo dài, có khăn tênh vào váy hình ống, gấu váy có hoa văn diềm phía trong. Nam giới có quần trùng may chân què rộng đũng, áo ngắn và khăn tênh dắt ngoài cạp quần

Dân tộc cờ Lao

Có hơn 2000 người chia làm 3 nhóm : Trắng, Xanh, Đỏ. Địa bàn cư trú đa phần ở tỉnh Hà Giang quy tụ thành từng bản nhỏ, thường có tường đá xếp ở. Trang phục phụ nữ làm từ vải bông với kỹ thuật thủ công bằng tay. Họ tự trồng bông dệt vải, nhuộm vải, cắt may. Về mẫu mã áo phụ nữ Cờ Lao là áo năm thân sẻ ngực sang nách dài đến dưới dầu gối .

Dân tộc La Chí

Có dân số khoảng chừng hơn 12000 người sống đa phần ở Hà Giang. Nghề làm ruộng nước khá tăng trưởng. Trang phục truyền thống cuội nguồn của người La Chí làm bằng vải bông nhuộm màu tràm. Nam giới là áo dài năm thân sẻ trước ngực chéo sang bên phải, cài khuy dưới nách phải. Nay họ thường mặc áo ngắn sẻ ngực. Phụ nữ thường mặc áo tứ thân sẻ ngực có yếm thêu và thắt lưng vải .

Dân tộc Lô Lô

Dân số khoảng chừng hơn 3000 người, đa phần ở Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Lai Châu. Căn cứ hầu hết vào sắc tố của trang phục mà gọi là Lô Lô Hoa, Lô Lô Đen. Người Lô Lô biết tự dệt vải, phụ nữ mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, chui đầu, váy chiết li và gấp nếp khá đẹp. Nam y phục màu tràm .

Dân tộc Mông

Có những nhóm Mông Hoa, Mông Trắng, Mông Đỏ, Mông Xanh. Người Mông sống hầu hết những tỉnh miền núi Bắc bộ, Nghệ An, Thanh Hóa, với dân số khoảng chừng hơn 1 triệu người. Trang phục phụ nữ Mông rất sặc sỡ phong phú. Gồm váy xếp thành nhiều nếp, áo sẻ ngực, mang tạp dề đằng trước và đằng sau, chân quấn sà cạp, váy hình nón cụt, áo mở chếch ngực về bên trái, cài 1 khuy, cánh tay và cổ áo đều thêu hoa văn, gấu áo cũng có khuy đè lên ba bốn lớp vải màu, sẻ tà không khâu mà buộc dây giữ hai tà với nhau .

Dân tộc Pu Péo

Có khoảng chừng hơn 700 người tập trung chuyên sâu hầu hết ở tỉnh Hà Giang. Trang phục phái mạnh Pu Péo đa phần là màu tràm. Nữ giới mặc áo ngắn quần tràm sẻ ngực chéo sang nách phải, quanh cổ áo có mảnh vải được ghép từ những miếng vải nhiều màu. Váy phụ nữ Pu Péo dài, rộng, màu đen, dọc theo mép váy có vải ghép màu như cổ áo .

Dân Tộc Phù Lá

Sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Điện Biên, Lào Cai. Các nhóm địa phương gồm có  Phù Lá Lão – Bồ Khô Pạ, Phù Lá Ðen, Phù Lá Hán. Dân số có khoảng hơn 10000 người. Nam giới Phù Lá mặc quần dài, áo ngắn tràm đen, hai bên nẹp áo trước ngực, dọc lưng đính nhiều hạt cườm hình chữ thập.

Dân tộc Pà Thẻn

Cư trú tập trung chuyên sâu đa phần ở Hà Giang, Tuyên Quan. Trang phục dân tộc của phụ nữ Pà Thẻn hầu hết màu đỏ mang sắc tố truyền thống cuội nguồn. Bộ nữ phục có áo váy, khăn trong khăn ngoài, hoa văn chữ thập, thắt lưng trắng, đội khăn rộng màu đen, bên ngoài khăn đen có vành khăn đỏ bên ngoài, có dua hai bên. Trang sức có vòng cổ, khuyên tai, vòng tay .

Dân tộc Giáy

Có khoảng chừng 53000 người, sống đa phần ở Hà Giàn, Tỉnh Lào Cai, Lai Châu. Phụ nữ đẻ tóc dài vấn thành vòng khăn màu. Trên quấn khăn màu hơi lệch nghiêng rất duyên dáng. Tóc thường có những sợi chỉ hồng buông theo đuôi tóc. Đàn ông mặc đơn thuần hơn, quần theo kiểu lá tỏa, quần rộng, áo cái cúc trước ngực hoặc mở khuy ngực cài bên .

Dân tộc Nùng

Có số dân khoảng chừng 900000 lúc bấy giờ cư trú tập trung chuyên sâu đa phần ở Thành Phố Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lài Cai, Thái Nguyên, Hà Giang. Trang phục thường làm bằng vả bông nhuộm tràm. Trag phục nữ có khăn đội đầu, áo, quần, khuyên tai, vòng tay, vòng chân bằng bạc. Nam giới có mũ lưỡi chai, áo ngắn sẻ trước ngực, cài cúc, hai túi cổ áo có chân .

Dân tộc Ngái

Dân số khoảng chừng 5000 người sinh sống hầu hết ở những tỉnh miền núi Quảng Ninh, Thành Phố Lạng Sơn, Bắc Giang. Trang phục của người Ngái có nhiều nét độc lạ vào đặc trưng riêng. Đàn ông mặc áo sẻ ngực dài ngang hông với quần lá tỏa. Phụ nữ Ngái mặc áo 5 thân, trùm mông, cài cúc bên nách phải, quần lá tỏa, quần áo thường đồng màu và không trang trí hoa văn .

Dân tộc Sán chay

Có hai nhóm là Cao Lan và Sán Chỉ. Họ sống tập trung chuyên sâu hầu hết ở những tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên. Hiện có hơn 162000 người. Người Sán chay còn duy trì được nhiều nét ăn măc truyền thống cuội nguồn, nổi bật là chiếc áo Cù rằng rinh. Ngày nay thường mặc áo nhộm tràm, tay trẽn, hơi rộng ngang, cúc áo bằng đồng, cổ áo trắng, váy tràm là tấm vải khâu khép kín cao đến thắt lưng, đầu quấn mảnh vải tràm, hai đầu vắt chéo sau gáy, sà cạp màu trắng quấn từ mắt cá chân đến gối

Dân tộc Sán Dìu

Có dân số khoảng 165000 người, cư trú tập trung chủ yếu ở vùng núi các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Vĩnh Phúc. Trang phục dân tộc đặc trưng người Sán Dìu là áo bà ba nâu và quần nâu. Phụ nữ mặc áo lụa màu hoa đào, nâu non, váy hay quần màu chàm hoặc đen, đội khăn xếp mỏ quạ và đeo thắt lưng.

Dân tộc Thổ

Có gần 81000 người, cư trú đa phần ở Nghệ An, Thanh Hóa. Đàn ông dân tộc Thổ thường mặc quần cộc, dài may chân xòe, áo cộc ngắn tay, dài tay nhuộm nâu, cài khuy có hai túi trước. Phụ nữ mặc váy ống màu đen hoặc nhuộm tràm cổ viền, cài khuy, vạt sau che hông .

Dân tộc Ơ Đu

Chỉ có khoảng chừng hơn 600 người, cư trú tập chung hầu hết ở huyện Tương Dương – Nghệ An. Họ còn có tên gọi khác là Tày Hán. Họ thường sinh sống xen kẽ giữa những dân tộc khác .

Dân tộc Chứt

Có những nhóm địa phương là Sách, Mày, Nục … Cư chú tập trung chuyên sâu hầu hết ở Quảng Bình, TP Hà Tĩnh. Dân số có khoảng chừng hơn 5000 người. Trang phục xưa kia của người Chứt đơn sơ, mộc mạc. Về mùa hè, đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy. Khi mùa đông đến họ đến vỏ cây rập phơi khô, rồi lấy vỏ cây làm áo mặc. Hiện nay bộ trang phục nam của dân tộc Chứt đã mai một và đang được nghiên cứu và điều tra Phục hồi lại .

Dân tộc Vân Kiều

Có khoảng chừng 98000 người, tập trung chuyên sâu đa phần ở những tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Trang phục truyền thống cuội nguồn của phái mạnh là đóng khố. Phụ nữ mặc áo váy. Áo truyền thống cuội nguồn của cả nam nữ đều chui đầu không có tay. Áo làm bằng vải tấm ghép lại, khoét lỗ để chui đầu .

Dân tộc Tà ôi

Có khoảng chừng 42000 người, cư trú đa phần ở Thừa Thiên Huế, Quảng Trị. Phụ nữ đều mặc váy ống ngắn đến ngang bụng chân, áo cộc tay chui đầu, đeo thắt lưng, tuy nhiên song thân áo váy là họa tiết bằng chỉ màu đỏ, trắng trang trí. Nam đóng khố, cởi trần hoặc mặc áo ngắn, quanh đầu quấn khăn .

Dân tộc Cơ Tu

Cư trú tập trung chuyên sâu hầu hết ở những tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế. Có dân số khoảng chừng hơn 60000 người. Người Cơ Tu thường mặc trang phục do chính tay họ tạo ra. Đàn ông thường đóng khố, cởi trần. Phụ nữ mặc váy ống, nếu váy dài thì che từ ngực trở xuống, váy ngắn thì che thân mặc áo ngắn luồn đầu, có ống tay hoặc không. Người Cơ Tu cũng dệt được những tầm vải lớn để choàng quanh người khi mùa đông đến .

Dân tộc Cor

Sống hầu hết tập trung chuyên sâu ở tỉnh Tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam. Dân số khoảng chừng hơn 33000 người. Trước đây nam thường đóng khố. Nữ thường mặc áo ngắn, yếm, áo ngắn cộc tay. Nền vải y phục người Co truyền thống lịch sử màu chàm hoặc đen, bộ quần áo trắng dài được những bô lão mặc trong ngày cưới, liên hoan .

Dân tộc Hơ Rê

Có trên 120000 người, cư trú tập trung chuyên sâu ở miền núi phía tây Tỉnh Quảng Ngãi, Tỉnh Bình Định. Trang phục dân tộc của phái mạnh thường mặc khố, áo đen ống dài tay, khuy phía trước, áo dài không quá thắt lưng. Phụ nữ mặc váy ống. Áo truyền thống màu tràm, ống tay dài hẹp cài khuy bên phải gấu áo, sống sống lưng viền chỉ trắng, bên trong mặc yếm .

Dân tộc Giẻ Triêng

Có hơn 46000 người cư trú tập trung chuyên sâu hầu hết ở tỉnh Kon tum, Quảng Nam. Nữ giới mặc váy quấn, trên mặc áo cộc hoặc áo dài tay, có khi mặc váy ống trùm kín từ ngực xuống, đeo nhiều đồ trang sức đẹp. Nam đóng khố. Hiện nay trang phục truyền thống lịch sử đang được Phục hồi lại .

Dân tộc Xê Đăng

Có khoảng chừng hơn 170000 người, cư trú tập trung chuyên sâu ở tỉnh Kon Tum, Quảng Nam, Tỉnh Quảng Ngãi. Đàn ông đóng khố cởi trần. Đàn bà mặc váy áo có nhiều hoa văn đẹp và sắc tố rực rỡ tỏa nắng .

Dân tộc Chăm

Có hơn 142000 người, sinh sống hầu hết ở những tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên và một bộ phận sinh sống ở những tỉnh Nam bộ như Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai, TP HCM. Trước đây người dân tộc Chăm cả nam lẫn nữ đều quấn váy ấm. Đàn ông mặc áo cánh ngắn, sẻ ngực, cài khuy. Đàn bà mặc áo dài chui đầu, trên đầu quấn khăn dài, khăn úp lên nhau trên đỉnh đầu, khăn áo váy đều mang màu trắng, vải sợi bông .

Dân tộc Rắc Lây

Có dân số khoảng chừng hơn 130000 người cư trú tập trung chuyên sâu hầu hết ở tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú Yên, Bình Thuận, Lâm Đồng. Trang phục truyền thống cuội nguồn người Rắc Lây : đàn ông mặc áo bà bà, áo sơ mi, quần âu. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, áo sơ mi hoặc áo bà ba .

Dân tộc Bờ Râu

Có khoảng chừng 352 người, cư trú hầu hết ở tỉnh Kon Tum. Phụ nữ thường mặc áo sẻ ngực, váy quấn quanh thân mình buông dài xuống gót chân. Nam giới thường cởi trần đóng khố .

Dân tộc Rơ Măm

Có khoảng chừng 400 người sống tại Làng Le – Mô Rai – Sa Thầy – Kon Tun. Trang phục truyền thống lịch sử của người phụ nữ là áo ngắn tay, quấn quanh người không trang trí hoa văn. Nữ giới có tục xâu lỗ tai đeo vòng, đeo khuyên, hoa tai bằng ngà voi quý hiếm, gỗ, đồng. Đàn ông mặc khố, vạt trước dài đến đầu gối, vạt sau tới ống chân .

Dân tộc Chu Ru

Cư trú hầu hết ở tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận. Dân số khoảng chừng hơn 17000 người. Nữ thường quấn váy tấm, nửa thân trên choàng vải hở 1 bên vai. Đàn ông quấn Sà Rông mặc áo dài xẻ nách .

Dân tộc Bana

Có khoảng chừng hơn 200000 người, cư trú tập trung chuyên sâu đa phần ở những tỉnh, Gia Lai, Kon Tum và phía tây những tỉnh Phú Yên, Bình Đinh. Trang phục dân tộc của người Ba na giản dị và đơn giản. Đàn ông mặc áo chui đầu, cổ xẻ, hở ngực cổ tay có đường sọc đỏ chạy ngang với gấu áo. Phụ nữ mặc áo chui đầu nhưng không xẻ cổ. Có loại cộc tay, dài tay, sọc tay ở cổ áo chạy ngang khủy tay .

Dân tộc Gia Rai

Có hơn 423000 người, cư trú tập trung chuyên sâu hầu hết ở Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Phú Yên, Khánh Hòa. Phụ nữ mặc váy dài màu chàm ngang bắp chân, quanh thân và gấp dệt nhiều đường hoa văn, đeo nhiều đồ trang sức đẹp. Đàn ông đóng khố, kẻ sọc nhiều màu. Cả nam và nữ trong ngày tiệc tùng mặc Váy áo đẹp quán buôn tua dài quanh người .

Dân tộc Mạ

Dân tộc Mạ có trên 38000 người, Cư trú tập trung chuyên sâu đa phần ở Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai. Phụ nữ Mạ thường mặc váy quấn dài quanh bắp chân, áo ngắn ngang thắt lưng chui đầu, hai vạt sau và trước bằng nhau, quanh áo và thân váy ống tay có nhiều hoa văn chạy song song. Nam nữ đều thích đeo vòng ở cổ tay bằng đồng, có ngấn khắc chìm .

Dân tộc Cờ Ho

Dân tộc hầu hết sinh sống tập trung chuyên sâu ở tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận. Dân số Cờ Ho có khoảng chừng 135000 người. Đàn ông đóng khố, mùa nóng ở trần, khố của họ quấn chữ T, có nhiều đường màu đỏ để trang trí. Phụ nữ Cờ Ho mặc váy, áo ngắn chui, có 3 loại ngắn thân, cộc tay và áo dài, váy là tấm quấn quanh người ngắn cạp, nền váy màu đen, cạp thân và gấu váy dệt những sợi hoa văn vàng, trắng .

Dân tộc Ê Đê

Có trên 285000 người, sinh sống tập trung chuyên sâu đa phần những tỉnh Đắc lắc, phía nam Gia Lai và miền tây Phú yên, Khánh Hòa. Trang phục truyền thống lịch sử người Ê Đê là váy quấn dài đến gót chân, có những đường dệt hoa văn chỉ trắng đỏ trên nền vải chàm. Ngày nay thông dụng mặc váy ống, phía trên mặc áo ngắn chui đầu, ống tay dài hoặc cộc, với nhiều đường chỉ hoa văn ở vai và cổ tay áo .

Dân tộc Mơ Nông

Có khoảng chừng 108000 người, đồng bào Mơ nông cư trú tập trung chuyên sâu ở phía nam tỉnh Đắc Lắc, ĐẮc Nông và một phần tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai. Đàn ông thường đóng khổ ở trần. Đàn bà mặc váy quấn bông dài trên mắt cá chân. Thanh niên nam nữ thường mặc áo chui đầu, khố váy áo màu chàm sẫm trang trí hoa văn đỏ .

Dân tộc S’tiêng

Cư trú tập trung chuyên sâu hầu hết ở những tỉnh Bình Phước, Lâm Đồng, Tây Ninh. Dân số khoảng chừng hơn 78000 người có nhiều nhóm địa phương. Nam giới Siêng đóng khố mình trần, mùa lạnh mặc áo chui đầu. Phụ nữ thường mặc váy, áo ngắn tay với nhiều sắc tố hoa văn .

Dân tộc Chơ ro

Có hơn 28000 người, cư trú tập trung chuyên sâu ở tỉnh Đồng Nai, Tỉnh Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu. Đàn ông thường đóng khố cởi trần, về mùa lạnh mặc quần áo ngắn, khoác thêm chiếc mền. Phụ nữ thì mặc chiếc váy quấn trên mặc áo ngắn, mùa rét cung khoác thêm tấm mền. Nam nữ chit khăn dài trên đầu. Phụ nữ thường đeo chuỗi hạt cườm ngũ sắc ở cổ, vòng bạc, đồng, nhôm ở cổ tay .

Dân tộc Hoa

Có dân số khoảng chừng 970000 người, cư trú tập trung chuyên sâu đa phần ở tỉnh Tây Ninh, Sóc Trăng, Biên Hòa, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu và 1 số ít tỉnh thành khác. Trang phục dân tộc truyền thống của người Hoa làm từ vải bông với nhiều sắc tố. Nữ mặc áo năm thân dài trùm qua mông, sẻ ngực, chéo sang nách phải cài cúc phải. Nam mặc áo sẻ ngực cái cúc bằng vải có túi ở vạt trước .

Dân tộc Khơ me

Có số dân khoảng chừng hơn 1,1 triệu người sống tập trung chuyên sâu ở những tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Hậu Giang, Bạc Liêu. Trang phục truyền thống lịch sử của người Khơ me là quấn sà rông bằng vải tơ, áo mỏng mảnh bó sát người hoặc bộ quần áo bà ba màu đen, đầu quấn khăn rằn. Nam mặc sà rông. Nữ có thêm chiếc áo dài chui đầu .

Dân tộc Kinh

Sống tập trung chuyên sâu hầu hết ở đồng bằn Trung du, ngoài những còn sống ở miền núi, hải đảo và cao nguyên. Dân tộc Kinh có số dân đông nhất trong hội đồng 54 dân tộc khoảng chừng hơn 70 triệu người. Trang phục dân tộc của người Kinh cũng khá rực rỡ .

Xưa đàn ông mặc quần áo cánh, ngày tết mặc quần dài trắng, áo the đen đội khăn xếp đi guốc mộc. Đàn bà mặc váy đeo yếm, áo cánh chit khăn. Hiện nay áo dài truyền thống cuội nguồn đã trở nên phổ cập cả trong và ngoài nước với nhiều sắc tố, mẫu mã đẹp .