tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học và nhân văn – Báo chí – Studocu

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

—–—–

BÀI TẬP CUỐI KỲ

Họ và tên sinh viên: Phạm Thị Thảo Lớp: Xây dựng Đảng & Chính quyền nhà nước Mã sinh viên : 2052020037 Lớp tín chỉ : K40-TG01004-5

Hà Nội, 2021

LỜI CẢM ƠN

Để đề tài được hoàn thành ngoài nỗ lực bản thân, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ths Lê Thành Khôi đã giúp đỡ em trong quá trình học tập môn học PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN cũng như trong quá trình thực hiện bài thi.

Do tình hình dịch bệnh covid 19 diễn biến phức tạp, để đảm bảo kết thúc học phần đánh giá kết quả học tập cho sinh viên nhà trường và khoa Tâm Lý – Giáo Dục & Nghiệp Vụ Sư Phạm đã tạo điều kiện cho chúng em tham gia làm bài tập lớn thay cho kì thi chung như bình thường, dù có nhiều thay đổi song em vẫn cố gắng nắm bắt và tiếp thu kiến thức hết sức mình. Tuy nhiên thời gian làm bài còn nhiều hạn chế, em không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của thầy (cô) để bài thi của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Thảo

CÂU 1: (6 điểm)

Tên đề tài:

PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

VIỆT NAM HIỆN NAY

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, vấn đề công chức, công vụ, đạo đức công vụ trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa trở thành đề tài nóng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Nhiều công trình khoa học đã được công bố, nhiều cuộc hội thảo liên quan đến các vấn đề trên đã được tổ chức. Không ít các văn bản của Đảng, của Nhà nước liên quan đến các chủ đề trên đã được ban hành và đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống sự biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công chức ở Việt Nam hiện nay.

Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính đòi hỏi xây dựng một nền hành chính chính quy, chuyên nghiệp thực sự là của dân, do dân và vì dân, cùng với quá trình đó là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất cđạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Những phẩm chất đó như là những biểu hiện tập trung đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và chuyển đổi từ nền hành chính cai quản sang nền hành chính phục vụ thực hiện các dịch vụ công đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công vụ của mọi đối tượng cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu vấn đề đạo đức công vụ không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Sở dĩ nói như vậy là vì một số lí do sau đây:

Thứ nhất, đạo đức công vụ là vấn đề cơ bản nhất để nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội. Có thể nói sau khi xây dựng được hệ thống chính sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chức năng quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được được thực hiện thế nào, hiệu lực, hiệu quả ra sao phụ thuộc đáng kể vào việc thực thi công vụ của đội ngũ công chức nhà nước. Nói cách khác, đạo đức công chức trong thực thi công vụ có vai trò quyết định. Vì vậy nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ cấp bách trong tiến trình cải cách nền hành chính.

Thứ hai, nhà nước ta luôn xác định nhân tố con người đóng vai trò then chốt trong công cuộc cải cách hành chính, xây dựng được một đội ngũ công chức giỏi về nghiệp vụ và đáp ứng được những chuẩn mực của đạo đức công vụ là một trong những yêu cầu cấp bách góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng thời nâng cao đạo đức công vụ còn là một trong những công cụ hữu hiệu phục vụ cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực.

Thứ ba, trong Nhà nước pháp quyền, người dân có vị trí đặc biệt. Xu hướng chung là các chức năng của nhà nước đang hướng tới phục vụ, đáp ứng lợi ích của người dân. Nhà nước Việt Nam là của dân, do dân và vì dân, do đó mục tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Với bản chất như vậy và để thực hiện mục tiêu đó thì đội ngũ công chức phải thực sự là người có đạo đức. Hơn nữa trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công vụ phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới.

Thứ tư, về phương diện thực tiễn, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta phải đối mặt với không ít những thách thức. Tình trạng thiếu trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức đang có nhiều vấn đề, suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức. Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc cho nhân dân, trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước. Đảng đưa ra nhận định: Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước, đe dọa sự ổn định của đất nước.

Vấn đề đạo đức và trách nhiệm công chức là một vấn đề mà Đảng và Nhà nước rất quan tâm, vì vậy, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-TW ngày 14/5/2011 về việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1973/CT-TTg ngày 07/11/2011, về việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, qua đó đã quán triệt và tổ chức thực hiện thường xuyên, nghiêm túc việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng trong việc tu dưỡng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, chống suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, công chức, viên chức là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng và xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Thực tiễn những năm qua, công tác xây dựng Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được nâng lên. Đa số cán bộ, công chức, viên chức đều kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Song, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, chạy chức chạy quyền, độc đoán, vi phạm kỷ luật,… diễn ra ngày một phức tạp hơn. Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tất yếu dẫn tới sự suy yếu tổ chức và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Chỉ khi nhận diện đúng nguồn gốc và những biểu hiện của suy thoái đạo đức, lối sống, suy thoái chính trị tư tưởng chúng ta mới có thể xác định nội dung, biện pháp phòng, chống hiệu quả.

Bác Hồ đã nói: “Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ” như vậy vấn đề đạo đức công vụ công chức là vấn đề có tầm quan trọng rất lớn dẫn đến sự thành bại của nền hành chính.

Đối với công tác xây dựng chính quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên và việc phòng, chống suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng đảng.

Tại tác phẩm Sửa đổi lối làm việc năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra các căn bệnh nguy hiểm trong cán bộ, đảng viên như: kiêu ngạo, hống hách, hẹp hòi, tham nhũng… và để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bản lĩnh cầm quyền của Đảng, Người kêu gọi mọi cán bộ, đảng viên phải hành động quyết liệt để chống lại những căn bệnh đó để nhân dân tin Đảng và Đảng phải vững mạnh để phục vụ nhân dân, để ngăn chặn tình trạng suy thoái đạo đức trong cán bộ, đảng viên đang là một vấn đề lớn đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta.

Trong bối cảnh cải cách mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ phải đối mặt với những tác động tiêu cực từ đời sống xã hội. Thực trạng suy thoái về đạo đức trong cán bộ, đảng viên đã và đang có những diễn biến phức tạp, trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI đã nêu lên những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng hiện nay: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”, những biểu hiện đó có nguy cơ làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều năm chậm được khắc phục, nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự mất dần lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ Xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang ra sức phấn đấu xây dựng.

Đứng trước thực tế đó, nghiên cứu thực trạng biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công chức nước ta hiện nay, tìm giải pháp cơ bản để hạn chế sự biến đổi tiêu cực hướng tới xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực với đội ngũ công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới là công việc hết sức cấp thiết.

Đối với mỗi người cán bộ, công chức, đạo đức là gốc, là nền tảng để quyết định mọi vấn đề có liên quan đến chất lượng thực thi công vụ. Vì thế, xây dựng và thực thi các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp là yêu cầu cấp thiết trong tất cả các thời kỳ, đặc biệt là trong giai đoạn xã hội có nhiều biến đổi nhanh, mạnh mẽ như hiện nay…

Với ý nghĩa đó, em chọn đề tài “Phương pháp giáo dục đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” làm bài thi của mình.

2. Đối tượng nghiên cứu:

Phương pháp giáo dục đạo đức công vụ.

  • 3. Khách thể nghiên cứu : Toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức, Đảng viên của bộ máy nhà nước.
  • 4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
    4.1. Mục tiêu nghiên cứu

    Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực trạng tình hình đạo đức công vụ của công chức nước ta hiện nay, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng tiêu cực gây xói mòn và nâng cao đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ công chức, viên chức trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

    4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

    Thứ nhất, nghiên cứu tổng quan các vấn đề liên quan đến đạo đức công vụ, pháp luật về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam.

    Thứ hai, trình bày và phân tích thực trạng đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ công chức thời gian qua, từ đó thấy được những hạn chế, yếu kém của nền công vụ nước ta.

    Thứ ba, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ công chức nước ta hiện nay.

    5. Đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu
    5.1. Đối tượng khảo sát

    Cán bộ, công chức tại thành phố Hà Nội

    5.2. Phạm vi nghiên cứu

    Giới hạn về không gian: trên phạm vi cả nước

    Giới hạn về thời gian: Tính đến hết 31/05/2021

    PHẦN NỘI DUNG

    I. Cơ sở lý luận về đạo đức công vụ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
    1. Đạo đức

    Đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, gắn với con người, tồn tại cũng với xã hội loài người.. Với tư cách là một phương diện của đời sống xã hội, đạo đức hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (đạo đức trong kinh tế, đạo đức trong chính trị, đạo đức trong nghệ thuật, đạo đức trong tôn giáo…). Đạo đức bao gồm ý thức đạo đức và hành vi đạo đức. Như vậy, đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh các hành vi của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, sức mạnh truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.

    Bác không sử dụng thuật ngữ “đạo đức công vụ, công chức” mà Người sử dụng “đạo đức cách mạng, đạo đức cán bộ”.

    Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác -Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”. Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi giáo dục mọi người thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và đưa vào những khái niệm đó nội dung mới cho phù hợp với phẩm chất cách mạng của cán bộ, Đảng viên ta. Hồ Chí Minh khi bàn về vấn đề đạo đức của đảng viên, cán bộ công chức thường sử dụng các phạm trù “Đức” và “Tài”. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xử lý hài hòa chú trọng hai phẩm chất này vì công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước, đồng thời đặt ra những yêu cầu về tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất và năng lực đối với cán bộ công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Công chức phải có đức, có tài. Người viết rằng Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Khi nói, người cán bộ, công chức có đức, có tài là muốn đề cập đến những khía cạnh hết sức cụ thể chẳng hạn: Phẩm chất chính trị; phẩm chất đạo đức; trình độ học vấn; chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành… và tài bao chứa ở trong nhau. Hơn bao giờ hết, đạo đức cán bộ, công chức phải thể hiện sự thống nhất giữa đức và tài, trong đó Đức là gốc. Việc đòi hỏi cán bộ, công chức phải có đức, có tài trong thực thi công vụ là muốn đề cập tới những tiêu chuẩn chung nhất của người cán bộ, công chức. Đối với cán bộ, công chức, tất yếu có kiến thức về quản lý nhà nước; có năng lực điều hành và tổng kết thực tiễn; có khả năng thể chế hoá các chỉ thị và nghị quyết của Đảng, tinh thông về chính sách và pháp luật; nghiệp vụ hành chính; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi trọng cả “đức” và “tài”, “đức” là gốc.

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kết quả của sự vận dụng sang tạo chủ nghĩa Mắc -Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Người cho rằng: Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ nó xóa đi những gì là lỗi thời và phát huy mạnh mẽ những tiềm năng tinh thần, những phẩm chất đạo đức đang tồn tại. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải có con người cách mạng với tinh thần cách mạng. Cho nên, đạo đức cách mạng là bước ngoặt lớn nhất, bước ngoặt căn bản của lịch sử đạo đức Việt Nam trong truyền thống đạo đức Việt Nam. Đạo đức này phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và bản thân nó cũng tạo cho mình một chuyển biến cách mạng. Đạo đức cách mạng trước hết là đạo đức của những người làm cách mạng, là đạo đức của cán bộ, đảng viên, những người phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đạo đức cách mạng của cán bộ, công chức được thể hiện thông qua những hành vi hoạt động của họ vì cách mạng, vì sự nghiệp chung của nhà nước và xã hội. Do vậy, đạo đức cách mạng khác hẳn với đạo đức cũ.

    2. Đạo đức công vụ

    Công vụ là khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong khoa học chính trị, nhất là trong hoạt động của nhà nước. Trong cuốn Thuật ngữ hành chính các tác giả viết: Công vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo qui định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội. Khái niệm công vụ gắn chặt với nền hành chính nhà nước, là một loại lao động đặc thù thể hiện bộ phận quản lí nhà nước; thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống; quản lý và sử dụng hiệu quả công sản và ngân sách nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. “Công vụ là một hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trong quá trình quản lý các mặt của đời sống xã hội”. Nói đến công vụ là nói đến họat động của nhà nước , một lĩnh vực đặc thù, mang tính quyền lực công, được thực thi vởi một đội ngũ công chức hành chính nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong quá trình quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đề cập đến công vụ là đề cập đến trách nhiệm của công chức thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Do đó, công vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ có hiệu lực, hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ.

    Công vụ là một nghề, vì thế, đạo đức công vụ cũng là một dạng đạo đức nghề nghiệp, nhưng là dạng đạo đức đặc biệt, bởi vì khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cán bộ, công chức vừa phải đảm bảo những tiêu chí, giá trị đạo đức chung, vừa phải tuân thủ những nguyên tắc trong thi hành công vụ, bảo đảm hài hòa vừa hợp hiến, hợp pháp, hợp lý. Với cách tiếp cận như vậy, có thể quan niệm: đạo đức công vụ là những tiêu chí, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ; khi thực thi công vụ, cán bộ, công chức phải tuyệt đối chấp hành. Điều này có nghĩa là:

    Người làm việc trong các cơ quan nhà nước nói riêng, trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị nói chung, tùy theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình có trách nhiệm tham mưu, giúp việc cho thủ trưởng đơn vị và các phòng ban chức năng xây dựng, ban hành các chính sách, thể chế quản lý với tinh thần phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn sinh sống, thực hiện các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; cung cấp các dịch vụ hành chính công cho nhân dân đảm bảo yêu cầu thuận tiện, không sách nhiễu phiền hà, tôn trọng dân tránh thái độ cửa quyền, ban ơn.

    Đối với công chức ở các đơn vị, tổ chức sự nghiệp phục vụ các dịch vụ xã hội, dân sinh như các tổ chức y tế chăm sóc sức khỏe cho dân, các cơ sở giáo dục, các cơ sở dịch vụ văn hóa tinh thần và các dịch vụ dân sinh khác phải làm hết trách nhiệm, nghĩa vụ với tinh thần tận tụy, tôn trọng nhân cách của con người, thương yêu con người, phấn đấu vì một xã hội tốt đẹp. Thái độ cửa quyền, ban ơn, hách dịch hoặc thương mại hóa các hoạt động dịch vụ đó đều trái với phẩm chất đạo đức của người công chức XHCN.

    Tính nguyên tắc và ý thức tổ chức kỷ luật là quy định bắt buộc để công chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; là việc chấp hành nghiêm các quy định, nội quy, chế độ làm việc, không tùy tiện, không làm việc theo tùy thích và cảm tình cá nhân; là tận tâm, tận lực hoàn thành tốt nhiệm vụ với tính tự giác cao. Trong hoạt động công vụ, nhân sự hành chính là khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả công việc. Toàn bộ đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, các cơ quan hành chính trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân giao nếu “có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý…”, do vậy, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”

    Đoàn kết, hợp tác với đồng nghiệp trong cơ quan, với các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức có liên quan tới công vụ nhằm phát huy trí tuệ, phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể, hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất. Người có tinh thần và thể hiện sự đoàn kết, hợp tác là người biết nhận khó khăn về mình, gặp khó khăn, trở ngại trong công việc biết hợp tác cùng nhau tìm cách giải quyết, không tranh công, đổ lỗi và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành nhiệm vụ. Không ganh tỵ, đố kỵ tạo cơ hội để đồng nghiệp cùng phát triển, tiến bộ. Tinh thần đoàn kết, hợp tác đòi hỏi người công chức phải vì tập thể, vì việc công, có ý thức xây dựng cơ quan tập thể nơi mình công tác thành đơn vị vững mạnh. Cùng với ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức công vụ đòi hỏi ở người công chức phải làm việc có tinh thần sáng tạo, phát huy sáng kiến, hoàn thành nhiệm vụ, không thụ động, máy móc, quan liêu.

    Có tư duy sáng tạo, có phương pháp làm việc khoa học, biết đề xuất sáng kiến để nâng cao năng suất lao động, hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao là những phẩm chất rất cơ bản và cần thiết của đạo đức công chức trong nền công vụ hiện đại. Tinh thần lao động sáng tạo, xuất phát từ bản chất và lợi ích của giai cấp công nhân. Và cũng chính những đặc điểm đó quy định phẩm chất đạo đức của người công chức XHCN.

    3. Công chức

    Công chức là bộ phận cấu thành của nền công vụ. Khái niệm công chức bao giờ cũng gắn liễn và song hành với sự hình thành, phát sinh và phát triển của nền công vụ. Năng lực, hiệu quả hoạt động của nền công vụ được quyết định bởi trình độ, năng lực của công chức. Công chức được hiểu một cách chung nhất là những người thừa hành quyền lực nhà nước trong thực thi công vụ một cách chuyên nghiệp. Thuật ngữ công chức ở Việt Nam được sử dụng qua mỗi giai đoạn lịch sử với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Theo khoản 2 Điều 4 Luật Cán Bộ Công Chức sửa đổi và bổ sung năm 2019 thì: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị -xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

    Khác với các nước, công chức ở Việt Nam bao gồm: công chức trong các cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam, công chức Nhà nước, công chức của các tổ chức chính trị -xã hội, công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, công chức trong cơ quan, đơn vị quân đội và công an. Như vậy, nghiên cứu đạo đức công vụ là nghiên cứu đạo đức trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức. Như vậy, thống nhất quan điểm về công vụ, công chức và đạo đức công vụ làm cơ sở để nghiên cứu, đánh giá về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là việc hết sức cần thiết.

    II. Thực trạng đạo đức công vụ ở Việt Nam và nguyên nhân về vấn đề đạo đức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức hiện nay

    Đạo đức công vụ nhân tố điều chỉnh hành vi, cách xử sự, thái độ của công chức trong quá trình thực hiện công vụ, được pháp luật thể chế hóa thành các quy tắc pháp lý. Đạo đức công vụ của công chức có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của nền công vụ nhà nước, vì vậy việc đánh giá thực trạng đạo đức công vụ của công chức được đánh giá thông qua sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ, qua kết quả phục vụ của nền công vụ và những khiếm khuyết hạn chế của nó.

    1. Thực trạng đạo đức công vụ ở Việt Nam
    a. Việc thực hiện trách nhiệm, bổn phận của công chức

    Để đánh giá đạo đức công vụ của công chức cần phải căn cứ vào việc thực hiện trách nhiệm, bổn phận của công chức trong hoạt động công vụ của họ hướng tới phục vụ con người, phục vụ nhân dân như thế nào. Điều này trước hết thể hiện ở những cải cách hành chính nhằm tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức thực các quyền, tự do, lợi ích của họ. Trong công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ khi tiến hành cải cách nền hành chính, việc thực thi trách nhiệm công vụ và đạo đức công vụ ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tạo nên sự chuyển biển theo xu hướng tích cực, tiến bộ của đời sống kinh tế -xã hội đất nước. Những thành tựu này thể hiện qua một số khía cạnh cơ bản sau đây:

    Thứ nhất, trong xây dựng đội ngũ công chức.

    Ở nước ta, công tác xây dựng đội ngũ công chức trong thời gian qua đã từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đảm bảo duy trì tính hiệu quả trong vai trò mới của nhà nước phân cấp và giao tuyến. Có thể thấy những cải cách vừa qua đã tập trung vào việc xây dựng một đội ngũ công chức có phẩm chất đạo đức tốt và kỹ năng hành chính chuyên nghiệp đáp ứng vai trò mới của Nhà nước.

    Thứ hai, có sự chuyển biến theo hướng tích cực về chất lượng và phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức.

    Đội ngũ công chức Việt Nam nhìn chung luôn nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn bổn phận “công bộc”, trách nhiệm phục vụ nhân dân của mình với tinh thần liêm chính, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần khắc phục khó khăn vượt qua những thử thách của cuộc sống hiện thực để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

    b. Những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ

    Bên cạnh những tiến bộ đã đạt được trong thực thi trách nhiệm công vụ và đạo đức công vụ, trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế và yếu kém thể hiện ở một số khía cạnh sau:

    Thứ nhất, đạo đức công vụ chưa thể hiện rõ ràng ở việc cải cách thể chế.

    Biểu hiện rõ thấy nhất là “số lượng văn bản được ban hành nhiều, nhưng chất lượng chưa cao, chưa thể hiện nhất quán tinh thần cải cách hành chính”. Hệ thống văn bản ban hành còn thiếu tính toàn diện , tính cục bộ ngành, lĩnh vực còn chậm khắc phục. Mặc dù hệ thống luật pháp đã được đổi mới và xây dựng lại một cách sâu rộng, từ Hiến pháp đến hệ thống luật, nghị định xong còn thiếu đồng bộ, giữa các luật được chuẩn bị bởi các bộ khác nhau, được ban hành vào thời điểm khác nhau còn không ít chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.

    Thứ hai, đạo đức và thái độ phục vụ nhân dân của một số bộ phận công chức còn yếu kém.

    Vấn đề đạo đức và trách nhiệm công chức là một vấn đề mà Đảng và Nhà nước rất quan tâm, vì vậy, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-TW ngày 14/5/2011 về việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1973/CT-TTg ngày 07/11/2011, về việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, qua đó đã quán triệt và tổ chức thực hiện thường xuyên, nghiêm túc việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng trong việc tu dưỡng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, chống suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, công chức, viên chức là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng và xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa hiện nay. Thực tiễn những năm qua, công tác xây dựng Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được nâng lên. Đa số cán bộ, công chức, viên chức đều kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Song, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, chạy chức chạy quyền, độc đoán, vi phạm kỷ luật,… diễn ra ngày một phức tạp hơn. Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tất yếu dẫn tới sự suy yếu tổ chức và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Chỉ khi nhận diện đúng nguồn gốc và những biểu hiện của suy thoái đạo đức, lối sống, suy thoái chính trị tư tưởng chúng ta mới có thể xác định nội dung, biện pháp phòng, chống hiệu quả.

    Bác Hồ đã nói: “Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ” như vậy vấn đề đạo đức công vụ công chức là vấn đề có tầm quan trọng rất lớn dẫn đến sự thành bại của nền hành chính. Đối với công tác xây dựng chính quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên và việc phòng, chống suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng đảng. Tại tác phẩm Sửa đổi lối làm việc năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra các căn bệnh nguy hiểm trong cán bộ, đảng viên như: kiêu ngạo, hống hách, hẹp hòi, tham nhũng… và để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bản lĩnh cầm quyền của Đảng, Người kêu gọi mọi cán bộ, đảng viên phải hành động quyết liệt để chống lại những căn bệnh đó để nhân dân tin Đảng và Đảng phải vững mạnh để phục vụ nhân dân, để ngăn chặn tình trạng suy thoái đạo đức trong cán bộ, đảng viên đang là một vấn đề lớn đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta.

    Trong bối cảnh cải cách mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ phải đối mặt với những tác động tiêu cực từ đời sống xã hội. Thực trạng suy thoái về đạo đức trong cán bộ, đảng viên đã và đang có những diễn biến phức tạp, trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI đã nêu lên những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng hiện nay: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”, những biểu hiện đó có nguy cơ làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều năm chậm được khắc phục, nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự mất dần lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ Xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang ra sức phấn đấu xây dựng.

    2. Nguyên nhân

    Nguyên nhân sự trì trệ, sách nhiễu, cửa quyền, suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy hành chính ở tỉnh ta chủ yếu tập trung vào một số nguyên nhân sau:

    Việc triển khai Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước của các cơ quan, đơn vị còn chậm, thiếu quyết liệt nên hiệu quả chưa cao.

    Một số nơi người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự gương mẫu trong vấn đề đạo đức lối sống và trách nhiệm trong công việc nên đã tác động tiêu cực đến tư tưởng của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ.

    Năng lực, đạo đức của nhiều cán bộ, công chức, viên chức còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý nhà nước. Một sốcán bộ, công chức, viên chức có năng lực công tác nhưng phẩm chất đạo đức còn hạn chế trong việc thực hiện nhiêm vụ, công vụ gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của bộ máy công quyền.

    Các cơ quan, đơn vị chưa có sự quan tâm đúng mức đối với việc giáo dục tinh thần trách nhiệm, cũng như việc xử lý trách nhiệm đối với các trường hợp vi phạm đạo đức công vụ chưa nghiêm nên chưa thật sự có tính răn đe, làm gương.

    Thiếu những quy định cụ thể trong các đơn vị về trách nhiệm của cán bộ, công chức; cơ chế quản lý, kiểm tra giám sát của tổ chức và thủ trưởng trực tiếp cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, chưa nghiêm túc và thiếu đồng bộ.

    Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thường xuyên, và còn mang tính hình thức. Nhiều cán bộ, công chức, viên chức thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức.

    III. Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao đạo đức công vụ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

    Trong điều kiện thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp trước đây sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập toàn diện với thế giới, nhất là tạo ra thể chế kinh tế thị trường vận hành tuân thủ đầy đủ các quy luật của nền kinh tế thị trường, khi Việt Nam đã ký kết, thực hiện nhiều hiệp định song phương và đa phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ và các khu vực, đòi hỏi một sự chuyển đổi với nhiều thách thức và thời cơ đan xen mà trước hết là vị trí, vai trò mới của đội ngũ cán bộ, công chức trong quản trị nhà nước phát triển hiệu quả, yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ quản trị mới tương ứng với các chuẩn mực đạo đức mới hình thành, cần một hệ thống giải pháp tổng thể, với bước đi phù hợp với quá trình hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa theo mục tiêu của cải cách hành chính nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị.

    Gần 35 năm đổi mới, mặc dù đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song còn nhiều hạn chế trong cải cách thể chế, trong hình thành kết cấu hạ tầng kinh tế -kỹ thuật tương ứng, trong xây dựng đội ngũ nhân lực công có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đức -tài đáp ứng thời kỳ phát triển mới. Tính chuyên nghiệp, kỹ năng, sự thành thạo của đội ngũ công chức là thách thức lớn trong phát triển.

    Những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng tràn lan từ cao tới thấp, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, sự xuống cấp về đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, sự vô cảm… cũng đặt ra yêu cầu có giải pháp tổng thể cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức mới đủ năng lực, trình độ, “tài -đức” quản trị đất nước trong thời kỳ mới. Một số giải pháp cơ bản cần được ưu tiên để nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức trong thời gian tới là:

    Nghiên cứu nền tảng lý luận, triết học về các giá trị đạo đức, đạo đức xã hội làm cơ sở cho việc nghiên cứu xây dựng khung lý thuyết về đạo đức xã hội mới, về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức.

    Nghiên cứu hình thành mô hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại, trên cơ sở đó hình thành các tiêu chí của bộ máy hành chính mới, tiêu chí năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức mới của đội ngũ cán bộ, công chức.

    Hình thành pháp luật về đạo đức công chức thực thi công vụ hay cần có một luật về công chức -công vụ.

    Công chức khi thực thi công vụ mới phải tuân thủ các chuẩn mực vừa mang tính đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, những chuẩn mực quy định mang tính pháp luật của nhà nước trong mối quan hệ tổng hòa giữa con người với con người, con người với xã hội, con người với nhà nước trên cơ sở hài hòa quyền và lợi ích. Do đó, nguyên tắc pháp luật về đạo đức công vụ xây dựng trên nguyên lý: Pháp luật bắt buộc -nguyên tắc nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp -nguyên tắc đạo đức xã hội (các quy tắc ứng xử của công chức trong thực thi công vụ, thể hiện văn hóa công sở, văn hóa nơi công cộng, nêu gương trong ứng xử xã hội).

    Rà soát lại và bổ sung các quy định trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008, đồng thời nghiên cứu xây dựng Luật Công chức -công vụ.

    Đề cao vai trò đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ. Kinh nghiệm từ các nền công vụ tiên tiến trên thế giới, trong các trường đào tạo, huấn luyện công chức đều có chương trình huấn luyện công chức, từ việc ứng xử trong quan hệ công chức với người dân tới thái độ trách nhiệm trong thực thi công vụ.

    Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà nước, từng bước theo hướng chuyên nghiệp, từng bước hiện đại, xây dựng nền công vụ phục vụ, lấy thước đo hiệu quả bằng sự hài lòng của người dân, coi đó là công cụ, tiêu chí đánh giá chất lượng thực thi công vụ.

    Xây dựng các thể chế tổ chức và hoạt động công vụ theo mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch, quản lý nhà nước bằng pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là cơ sở để đẩy lùi tính vô cảm, vô trách nhiệm, tham nhũng, lãng phí một cách chủ động, tích cực, hiệu quả. Huy động sự tham gia của người dân, của các tổ chức xã hội vào công việc nhà nước, giám sát, phản biện xã hội một cách thiết thực đối với tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và đối với cán bộ, công chức trong thực thi công vụ.

    Đề cao vai trò làm gương của người lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu. Giáo dục công chức bằng hình thức nêu gương, tôn vinh các giá trị, các công chức thực thi công vụ có trách nhiệm, tận tâm, nhanh chóng, hiệu quả, nhất là các tấm gương “Cần -Kiệm -Liêm -Chính; Chí công -Vô tư” dưới nhiều hình thức.

    Chú trọng, khuyến khích tự đào tạo, tự tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ, công chức trong một xã hội học tập, trong nền kinh tế tri thức.

    Thường xuyên kiểm tra, giám sát về đạo đức công vụ đảm bảo tính khách quan, công bằng, đồng thời đưa ra hình thức xử lý trách nhiệm nghiêm khắc và phù hợp.

    Khi xem xét, đề bạt, bố trí cán bộ cần làm rõ những dư luận không tốt liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức trước khi quyết định.

    Phát huy vai trò của Mặt trận trong công tác phản biện xã hội.

    Nghiêm khắc trong việc giới thiệu để đua ra xét kỷ luật đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự gương mẫu trong vấn đề đạo đức, lối sống và trách nhiệm trong việc để ảnh hưởng đến cơ quan, đơn vị

    Xây dựng và hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ, công chức, viên chức theo hướng công khai, dân chủ, có sự tham gia của dư luận xã hội và công dân.

    Cải cách hệ thống tiền lương nâng cao chất lượng cuộc sống cho cán bộ, công chức, để cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo các điều kiện thiết yếu và nhu cầu cơ bản cho cuộc sống bản thân và gia đình; xây dựng các chế độ, chính sách khen thưởng thích đáng về vật chất và tinh thần đối với cán bộ, công chức, viên chức làm việc tốt, tận tụy và trong sạch.

    Xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng những sai phạm của cán bộ, công chức, viên chức nhằm giáo dục và chấn chỉnh cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật.

    Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng phát huy dân chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cơ quan nhà nước.

    Nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống.

    CÂU 2 a) (4 điểm)

    ➢Quy trình thực hiện phương pháp nghiên cứu tài liệu:

  • -Tài liệu là vật thể cung cấp những chỉ dẫn thông tin. Tài liệu gồm hai đặc trưng cơ bản: Đặc trưng về mặt vật chất thể hiện ở chất liệu và tín hiệu sử dụng; Đặc trưng tri thức thể hiện ở nội dung của tài liệu, mức độ xử lý và phổ biến của tài liệu.
  • -Tài liệu khoa học là những văn bản hoặc vật thể chứa đựng những thông tin khoa học giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu một vấn đề khoa học nào đó. Tài liệu khoa học không chỉ là phương tiện công bố kết quả nghiên cứu mà còn là cơ sở khẳng định quyền tác giả của nhà nghiên cứu.
  • -Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu đã có, thông qua các thao tác tư duy để rút ra kết luận khoa học.
  • -Nghiên cứu tài liệu bao gồm tập hợp các phương pháp: phân loại tài liệu, phân tích tài liệu, đọc, ghi,chép và tóm tắt tài liệu khoa học. Được thực hiện theo quy trình sau:

    + Phương pháp thu thập và phân loại tài liệu

  • • Thu thập tài liệu là bước đầu tiên, cần thiết và quan trọng cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Căn cứ vào vấn đề nghiên cứu và xuất phát từ giả thuyết khoa học, nhà nghiên cứu tiến hành xác định nguồn tài liệu, tìm kiếm và lựa chọn những tài liệu cần thiết nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh cho giả thuyết khoa học của mình.
  • • Phân loại tài liệu được tiến hành sau khi thu thập tài liệu để chuẩn bị cho quá trình đọc, khai thác nội dung. Phân loại tài liệu là phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu theo mục đích sử dụng của nhà nghiên cứu. Các hình thức phân loại phổ biến hiện nay là phân loại theo tên tác giả, phân loại theo thời gian công bố, hình thức công bố.
  • + Phân tích và tổng hợp tài liệu

  • • Phân tích tài liệu là phương pháp nghiên cứu tài liệu về một chủ đề bằng cách tách chúng thành từng bộ phận, từng mặt, từng vấn đề để hiểu chúng một cách sâu sắc, tìm thông tin phục vụ vấn đề nghiên cứu. Mục đích của việc phân tích tài liệu là thông qua phân tích hình thức và nội dung tài liệu, người nghiên cứu xác định tính hữu ích của tài liệu. Sau khi phân tích các dấu hiệu hình thức, người nghiên cứu tiến hành phân tích một số tiêu chí cơ bản về nội dung tài liệu.
  • • Tổng hợp tài liệu là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ các tài liệu thu thập được nhằm tạo ra một cách hiểu đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu.
  • + Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu

    Đọc và ghi chép tài liệu là một công đoạn trong phương pháp nghiên cứu tài liệu khoa học.

  • • Đọc tài liệu có nhiều cách đọc khác nhau
  • ✓Đọc thông thường
  • ✓Đọc nhanh
  • ✓Đọc trượt
  • ✓Đọc quét
  • ✓Đọc sâu
  • • Ghi chép tài liệu, sau khi đọc lướt toàn bộ tài liệu, nhà khao học tiến hành đọc kỹ và ghi chép những nội dung tài liệu có ý nghĩa với nhà khoa học và liên quan đến vấn đề nghiên cứu của mình.
  • + Phương pháp thực hiện tóm tắt khoa học

    Tóm tắt khoa học thường được thực hiện sau khi nhà nghiên cứu tiến hành đọc và ghi chép tài liệu. Bản tóm tắt thực hiện trên cơ sở các kết quả thu được của việc đọc và ghi chép tài liệu.

    ➢Tình hình nghiên cứu đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay

  • Ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều giác độ, phạm vi, giới hạn khác nhau về vấn đề đạo đức công vụ. Sinh viên đã tiếp cận một số công trình khoa học về Đạo đức công vụ được công bố như:
  • -Đề tài khoa học cấp bộ “Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của TS Nguyễn Ngọc Hiến – Học viện hành chính quốc gia, Chủ nhiệm đề tài công trình này.
  • -Tìm hiểu về nền hành chính nhà nước của tác giả Nguyễn Hữu Khiền năm 2003.
  • -Đạo đức trong nền công vụ của nhóm tác giả Tô Từ Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo biên soạn năm 2002; đề tài này giới thiệu các kinh nghiệm cũng như giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam về nâng cao đạo đức trong nền công vụ.
  • -Công vụ, công chức nhà nước của tác giả Phạm Hồng Thái, ấn hành năm 2004. Công trình này tập trung làm rõ những khía cạnh lý luận, pháp lý về công vụ, công chức nhà nước , nhưng công trình này không có những bàn luận về đạo đức công vụ, đạo đức công chức trong thi hành công vụ.
  • -Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, của tác giả Bùi Thế Vĩnh ấn hành năm 2003. Các tác giả đã đưa ra một số giải pháp chung để xây dựng đạo đức cán bộ công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự vận dụng kinh nghiệm nước ngoài trong việc thúc đẩy tiến trình luật hóa đạo đức công chức ở Việt Nam.
  • -Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay – Vấn đề và giải pháp của tác giả Nguyễn Duy Quý ấn hành năm 2006.
  • -Mấy vấn đề đạo đức ở trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của hai tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc ấn hành năm 2003.
  • -Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức công vụ (Đề tài cấp Bộ 2006 – 2007) do tác giả Phạm Hồng Thái làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã có những luận bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật về công vụ với đạo đức công vụ, đồng thời đã phân tích sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ.
  • -Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và xu hướng biến động (Đề tài cấp Bộ năm 2002) do Nguyễn Thế Kiệt – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài)
  • -Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của Mai Xuân Hợi.
  • -Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Hằng – Viện triết học năm 2008.
  • -Trách nhiệm công chức và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của Cao Minh Công – Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 2012.
  • -Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Hữu Khiền đăng trên tạp chí triết học số 10/2003.
  • -Nghiên cứu so sánh quy định về đức công vụ của một số quốc gia và Việt Nam của tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan, ấn hành năm 2012. Đề tài này đề cập đến những vấn đề chung về đạo đức công vụ, so sánh đối chiếu quy định về đạo đức công vụ của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho hệ thống quản lý đạo đức công vụ của Việt Nam.
  • -Luật cán bộ công chức năm 2008, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm 2011, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
  • Các công trình trên đã đề cập đến nhiều nội dung phong phú như bàn về đạo đức công vụ, nội dung vai trò và ý nghĩa của đạo đức công vụ trong việc thực thi công vụ. Tuy nhiên, trong các công trình nói trên vấn đề đạo đức công vụ, đạo đức công chức trong thi hành công vụ đã được các tác giả xem xét, giải quyết ở một số khía cạnh nhất định, từ phương diện đạo đức học, xã hội học, triết học, hành chính học hay pháp luật hành chính, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đạo đức công vụ dưới góc độ lý luận và trong thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền.

    Tuy vậy nhưng đó đều là những tài liệu để cho em làm bài tập này.