Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý IV năm 2021 và chỉ số phát triển con người Việt Nam 2016-2020

Cùng với chủ trương thích ứng linh động trong phòng chống dịch để Phục hồi kinh tế tài chính, thị trường lao động quý IV mở màn có tín hiệu phục sinh. Lực lượng lao động, số người có việc làm quý IV năm 2021 tăng so với quý trước và giảm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tính chung cả năm 2021, diễn biến phức tạp và lê dài của đợt dịch Covid-19 lần thứ tư đã khiến tình hình lao động việc làm năm 2021 gặp nhiều khó khăn vất vả hơn so với năm 2020, lực lượng lao động, số người có việc làm giảm ; tỷ suất thiếu việc làm và thất nghiệp tăng so với năm trước .

I. TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM QUÝ IV NĂM 2021

1. Lực lượng lao động

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người, tăng khoảng 1,7 triệu người so với quý trước và giảm 1,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, lực lượng lao động ở cả hai khu vực nông thôn và thành thị đều tăng khoảng 0,8 triệu người và lực lượng lao động nữ tăng nhiều hơn so với lực lượng lao động nam (0,9 triệu người so với 0,8 triệu người). So với cùng kỳ năm trước, lực lượng lao động giảm mạnh ở khu vực nông thôn (giảm gần 2,2 triệu người) và giảm chủ yếu ở nam giới (giảm khoảng 0,8 triệu người).

Lực lượng lao động các quý, năm 2020 và 2021

Đơn vị tính : Triệu người

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2021 là 67,7 %, tăng 2,1 điểm Xác Suất so với quý trước và giảm 2,6 điểm Phần Trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ là 61,6 %, thấp hơn 12,7 điểm Xác Suất so với nam ( 74,3 % ). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 65,3 %, trong khi đó tỷ suất này ở nông thôn là 69,3 %. Xem xét theo nhóm tuổi, tỷ suất tham gia lực lượng lao động ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn ở hầu hết những nhóm tuổi, trong đó chênh lệch nhiều nhất được ghi nhận ở nhóm 55 tuổi trở lên ( thành thị : 32,7 % ; nông thôn : 46,6 % ) và nhóm từ 15-24 tuổi ( thành thị : 34,5 % ; nông thôn : 45,2 % ). Điều này cho thấy, người dân tại khu vực nông thôn gia nhập thị trường lao động sớm hơn và rời bỏ thị trường muộn hơn khá nhiều so với khu vực thành thị ; đây là đặc thù nổi bật của thị trường lao động với cơ cấu tổ chức lao động tham gia ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao .
Tỷ lệ lao động qua đào tạo và giảng dạy có bằng, chứng từ quý IV năm 2021 là 26,1 %, không biến hóa so với quý trước và cao hơn 0,3 điểm Phần Trăm so với cùng kỳ năm trước .
Trong tổng số 24,2 triệu người từ 15 tuổi trở lên không tham gia thị trường lao động ( ngoài lực lượng lao động ) của quý IV năm 2021, có 13,2 triệu người trong độ tuổi lao động, tập trung chuyên sâu nhiều nhất ở nhóm 15-19 tuổi ( gần 5,5 triệu người ) .

2. Số người có việc làm

Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý IV năm 2021 là 49,1 triệu người, tăng 1,82 triệu người so với quý trước và giảm 1,79 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Lao động có việc làm ở khu vực thành thị là 17,9 triệu người, tăng 890,1 nghìn người so với quý trước và tăng 498,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước ; số có việc làm ở nông thôn là 31,1 triệu người, tăng 934,5 triệu người so với quý trước và giảm 2,3 triệu người so với cùng kỳ năm trước .
Trong quý IV năm 2021, sau khi phủ rộng vắc xin mũi 2 và những giải pháp giãn cách xã hội đã được thả lỏng, nền kinh tế tài chính đã có tín hiệu phục sinh. Lao động có việc làm trong khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng là 16,8 triệu người, tăng 1,2 triệu người so với quý trước và giảm 239,0 nghìn người so với cùng kỳ năm trước ; khu vực dịch vụ là 17,9 triệu người, tăng 762,5 nghìn người so với quý trước và giảm 1,9 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản đạt 14,3 triệu người, giảm 120,9 nghìn người so với quý trước và tăng 361,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước .
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức [ 1 ] quý IV năm 2021 là 55,1 %, tăng 0,6 điểm Xác Suất so với quý trước và giảm 0,9 điểm Phần Trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động phi chính thức khu vực thành thị là 47,8 %, tăng 1,6 điểm Tỷ Lệ so với quý trước và giảm 0,2 điểm Xác Suất so với cùng kỳ năm trước, tỷ suất này ở khu vực nông thôn là 61,5 %, giảm 0,3 điểm Phần Trăm so với quý trước và giảm 0,7 điểm Xác Suất so với cùng kỳ năm trước .
So với quý III năm 2021, số lao động có việc làm phi chính thức là 19,4 triệu người, tăng 1,3 triệu người, tương ứng tăng 7,4 % ; cao gần gấp 2 lần mức tăng của lao động có việc làm. ( Lao động có việc làm quý IV năm 2021 là 49,1 triệu người, tăng 1,8 triệu người, tương ứng tăng 3,9 % so với quý trước ). Như vậy, sau cơn bão đại dịch, nhiều người lao động đã quay trở lại thị trường và có việc làm nhưng đó phần lớn là việc làm phi chính thức, với đặc trưng việc làm là bấp bênh, thiếu không thay đổi, thu nhập thấp, không có hợp đồng lao động hoặc có nhưng không được đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, không được chi trả những chính sách phụ cấp và những khoản phúc lợi xã hội khác. Rõ ràng, thị trường lao động có sự hồi sinh nhưng sự phục sinh này chưa thật vững chắc .

3. Lao động thiếu việc làm

Số người thiếu việc làm trong độ tuổi [ 2 ] quý IV năm 2021 là gần 1,5 triệu người, giảm 381,1 nghìn người so với quý trước và tăng 635,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý IV năm 2021 là 3,37 %, giảm 1,09 điểm Tỷ Lệ so với quý trước và tăng 1,55 điểm Xác Suất so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị cao hơn so với khu vực nông thôn ( tương ứng là 4,06 % và 2,95 % ). Đây là quý thứ 3 liên tiếp thị trường lao động tận mắt chứng kiến thực trạng tỷ suất thiếu việc làm ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Tình trạng này trái ngược với xu thế thị trường lao động trong những năm trước đại dịch Covid-19 [ 3 ] .

Số người và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động, các quý năm 2020 và 2021

4. Thu nhập bình quân tháng của người lao động

Thu nhập trung bình tháng của người lao động trong quý IV năm 2021 là 5,3 triệu đồng, tăng 139 nghìn đồng so với quý trước và giảm 624 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập trung bình tháng của lao động nam cao gấp 1,4 lần thu nhập trung bình của lao động nữ ( 6,2 triệu đồng so với 4,4 triệu đồng ) ; thu nhập trung bình của lao động ở khu vực thành thị cao hơn lao động ở khu vực nông thôn 1,3 lần ( 6,3 triệu đồng so với 4,8 triệu đồng ) .
So với quý III, quý đã tận mắt chứng kiến mức thu nhập thấp nhất chưa từng có trong nhiều năm trở lại đây, sang quý IV mức thu nhập trung bình của người lao động đã được cải tổ hơn ( tăng 139 nghìn đồng / người / tháng ). Tuy nhiên, diễn biến phức tạp, lê dài của dịch Covid-19 tác động ảnh hưởng thâm thúy đến đời sống của người lao động, so với cùng kỳ năm 2020 mức thu nhập của người lao động sụt giảm nghiêm trọng ( giảm 624 nghìn đồng / người / tháng ) .
Thu nhập trung bình của người lao động tăng ở cả ba khu vực kinh tế tài chính so với quý trước. Người lao động thao tác trong khu vực công nghiệp và kiến thiết xây dựng có mức thu nhập trung bình tăng cao nhất, với mức thu nhập là 5,9 triệu đồng / người / tháng, tăng 130 nghìn đồng, tương ứng tăng 2,2 % so với quý trước. Lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản có mức thu nhập trung bình là 3,4 triệu đồng, tăng 72 nghìn đồng, tương ứng tăng 2,1 %. Lao động khu vực dịch vụ có mức thu nhập trung bình là 6,3 triệu đồng, tăng 108 nghìn đồng, tương ứng tăng 1,7 % .

Thu nhập bình quân tháng của người lao động theo khu vực kinh tế, các quý năm 2020 và năm 2021

Đơn vị tính : Triệu đồng

5. Thất nghiệp trong độ tuổi lao động

Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV năm 2021 là hơn 1,6 triệu người, giảm 113,1 nghìn người so với quý trước và tăng 369,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV năm 2021 là 3,56 %, giảm 0,42 điểm Phần Trăm so với quý trước và tăng 0,93 điểm Xác Suất so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi của khu vực thành thị là 5,09 %, giảm 0,45 điểm Xác Suất so với quý trước và tăng 1,39 điểm Phần Trăm so với cùng kỳ năm trước .

Số người và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động, các quý năm 2020 và năm 2021

Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi 15-24 tuổi quý IV năm 2021 là 8,78 %, giảm 0,11 điểm Tỷ Lệ so với quý trước và tăng 0,84 điểm Tỷ Lệ so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi khu vực thành thị là 13,23 %, cao hơn 6,52 điểm Phần Trăm so với khu vực nông thôn .

6. Lao động làm công việc tự sản tự tiêu

Số lao động làm công việc tự sản tự tiêu[4] quý IV năm 2021 là 4,9 triệu người (thấp hơn 0,3 triệu người so với quý trước nhưng vẫn cao hơn 1,8 triệu người so với cùng kỳ năm trước), số lao động này chủ yếu biến động ở khu vực nông thôn. Gần hai phần ba số người sản xuất sản phẩm tự sản tự tiêu quý IV năm 2021 là nữ giới (chiếm 63,6%).

Trong tổng số 4,9 triệu người là lao động sản xuất tự sản tự tiêu, có đến hơn 3 triệu người đang trong độ tuổi lao động ( chiếm 55,5 % ). Hầu hết toàn bộ lao động sản xuất tự sản tự tiêu đều không có bằng cấp, chứng từ. Trong toàn cảnh thị trường lao động ngày càng yên cầu, nhu yếu cao về kinh nghiệm tay nghề, kiến thức và kỹ năng cũng như dịch Covid-19 ảnh hưởng tác động lớn tới tình hình lao động việc làm, thời cơ để nhóm lao động này có một việc làm trên thị trường lao động là rất khó khăn vất vả .

II. TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM NĂM 2021

1. Lực lượng lao động

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2021 đạt 50,5 triệu người, giảm 791,6 nghìn người so với năm trước. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 18,6 triệu người, chiếm 36,8 % ; lực lượng lao động nữ đạt 23,5 triệu người, chiếm 46,5 % lực lượng lao động của cả nước .
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2021 là 67,7 %, giảm 1,9 điểm Phần Trăm so với năm trước .
Lao động đã qua đào tạo và giảng dạy từ trình độ “ Sơ cấp ” trở lên năm 2021 là 26,1 %, tăng 0,8 điểm Tỷ Lệ so với năm trước .
2. Lao động có việc làm
Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2021 là 49,0 triệu người, giảm 1,0 triệu người so với năm 2020. Trong đó, giảm hầu hết ở khu vực nông thôn và ở phái mạnh. Số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn là 31,2 triệu người, giảm 1,5 triệu người và ở phái mạnh là 26,2 triệu người, giảm 729,5 nghìn người so với năm trước .
Trong năm 2021, tình hình dịch lê dài và phức tạp hơn trong năm 2020 đã khiến cho hàng triệu người mất việc, lao động trong những ngành liên tục giảm, đặc biệt quan trọng là khu vực dịch vụ. Lao động trong khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng là 16,3 triệu người ( chiếm 33,2 % ), giảm 254,2 nghìn người so với năm trước ; khu vực dịch vụ là 18,6 triệu người ( chiếm 37,9 % ), giảm 800,8 nghìn người so với năm trước ; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 14,2 triệu người ( chiếm 28,9 % ), tăng 37,3 nghìn người so với năm trước .

Lao động có việc làm theo khu vực kinh tế, 2019-2021

Đơn vị tính : Triệu người

Trong năm 2021, số lao động có việc làm chính thức và phi chính thức đều giảm. Số lao động có việc làm phi chính thức là 19,8 triệu người, giảm 628,0 nghìn người, mức giảm này cao hơn so với mức giảm ở lao động có việc làm chính thức ; số lao động có việc làm chính thức là 15,4 triệu người, giảm 469,8 nghìn người so với năm 2020 .
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp [ 5 ] năm 2021 là 56,2 %, tương tự so với năm trước. Tuy nhiên, ở khu vực nông thôn và ở phái đẹp tỷ suất này có khuynh hướng tăng tương ứng lần lượt là 1,0 điểm Xác Suất và 0,2 điểm Xác Suất so với năm trước .

3. Lao động thiếu việc làm

Thiếu việc làm trong độ tuổi năm 2021 là hơn 1,4 triệu người, tăng 370,8 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 3,10 %, tăng 0,71 điểm Tỷ Lệ so với năm trước. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 3,33 %, cao hơn 0,37 điểm Xác Suất so với khu vực nông thôn. Do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 lần thứ 4 đã đẩy tỷ suất thiếu việc làm ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn trong năm 2021. Điều này trái với xu thế thị trường lao động thường được quan sát ở nước ta với thực trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn thường nghiêm trọng hơn so với thành thị [ 6 ] .

4. Thu nhập của người lao động

Năm 2021 thu nhập trung bình tháng của người lao động là 5,7 triệu đồng, giảm 32 nghìn đồng so với năm 2020. Thu nhập trung bình tháng của lao động nam là 6,6 triệu đồng, cao hơn 1,40 lần của lao động nữ ( 4,7 triệu đồng ). Thu nhập trung bình của lao động khu vực thành thị là 7,0 triệu đồng, cao hơn 1,40 lần mức thu nhập trung bình lao động khu vực nông thôn ( 5,0 triệu đồng ) .
Xét theo ngành kinh tế tài chính, so với năm 2020, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản duy trì được mức độ tăng trưởng dương không thay đổi, với mức thu nhập trung bình tháng năm 2021 là 3,6 triệu đồng, tăng 7,1 %, tương ứng tăng 236 nghìn đồng. Thu nhập trung bình của lao động khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng là 6,4 triệu đồng, giảm 201 nghìn đồng, tương ứng giảm 3,0 % và lao động trong khu vực dịch vụ có mức thu nhập trung bình là 6,8 triệu đồng, giảm 27 nghìn đồng, tương ứng giảm 0,4 % .
Thu nhập trung bình tháng của lao động làm công ăn lương năm 2021 là 6,6 triệu đồng, giảm 45 nghìn đồng so với năm 2020. Lao động nam có mức thu nhập trung bình cao hơn 1,15 lần mức thu nhập trung bình của lao động nữ ( 7,0 triệu đồng so với 6,0 triệu đồng ) ; lao động khu vực thành thị có thu nhập trung bình cao hơn 1,23 lần lao động khu vực nông thôn ( 7,3 triệu đồng so với 5,9 triệu đồng ) .

5. Thất nghiệp trong độ tuổi lao động

Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2021 là hơn 1,4 triệu người, tăng 203,7 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,22 %, tăng 0,54 điểm Phần Trăm so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 4,42 %, cao hơn 1,94 điểm Phần Trăm so với khu vực nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi ( 15-24 tuổi ) là 8,48 %, tăng 0,52 điểm Phần Trăm so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi khu vực thành thị là 11,91 %, tăng 1,33 điểm Tỷ Lệ so với năm trước. Mặc dù nhà nước đã có những chủ trương dữ thế chủ động thích ứng linh động trong phòng chống Covid-19, vừa thực thi phục sinh, tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội nhưng tính chung cả năm 2021 thị trường lao động vẫn còn gặp nhiều khó khăn vất vả, với tỷ suất thất nghiệp năm nay cao hơn năm trước, trong đó khu vực thành thị vượt mốc 4 % .

6. Lao động tự sản tự tiêu

Số lao động làm việc làm tự sản tự tiêu trong năm 2021 là hơn 4,4 triệu người, tăng khoảng chừng 872,4 nghìn người so với năm trước. Số lao động này đa phần ở khu vực nông thôn ( chiếm 90,3 % ) .
Gần 2/3 số lao động tự sản tự tiêu là phái đẹp ( chiếm 62,7 % ). Số lao động nữ giới làm việc làm tự sản tự tiêu năm 2021 tăng gần 584 nghìn người so với năm trước. Đây là nhóm lao động yếu thế và chịu nhiều tác động ảnh hưởng từ diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 lần thứ 4. Trong tổng số hơn 4,4 triệu người là lao động sản xuất tự sản tự tiêu, hơn 2,6 triệu người đang trong độ tuổi lao động ( chiếm 58 % ) .

[1] Trong của quý IV năm 2021, tỷ lệ lao động phi chính thức bao gồm cả nông nghiệp là 67,8%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

[2] Trong độ tuổi lao động bao gồm: nam từ 15 đến 59 và nữ từ 15 đến 54 (từ năm 2020 trở về trước); nam từ 15 đến 60 tuổi 3 tháng và nữ từ 15 đến 55 tuổi 4 tháng (năm 2021 – theo Bộ luật Lao động 2019).

[3] Quý IV năm 2020, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 1,10%, ở khu vực nông thôn là 2,20%. Quý IV năm 2019, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 0,58%, ở khu vực nông thôn là 1,51%.

[4] Lao động tự sản tự tiêu là lao động trong khu vực nông lâm nghiệp thủy sản sản xuất ra sản phẩm với mục đích chủ yếu để cá nhân, gia đình sử dụng.

[5] Năm 2021, tỷ lệ lao động phi chính thức bao gồm cả nông nghiệp là 68,5%, giảm 1,8 điểm phần trăm so với năm trước.

[6] Năm 2020, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 1,65%, ở khu vực nông thôn là 2,80%. Năm 2019, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 0,70%, ở khu vực nông thôn là 1,52%.