Út Bạch Lan – Wikipedia tiếng Việt

Út Bạch Lan (1935 – 4 tháng 11 năm 2016) tên thật là Đặng Thị Hai là một nữ nghệ sĩ cải lương nổi tiếng. Sinh năm 1935 tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Bà được mệnh danh là giọng ca sầu nữ nổi tiếng lúc thời bấy giờ.[1]

Bà sinh ra trong mái ấm gia đình nghèo khó, sự khởi nghiệp bà cùng danh cầm Văn Vĩ. Nhờ nhân duyên mẹ của 2 người sống trong trạm gác cũ, kết nghĩa chị em. Văn Vĩ đánh đàn, bà hát, nhờ một ông lão tốt bụng mở cho một lớp để hai người dạy đàn ca vọng cổ. Một hôm, cô Năm Cần Thơ tìm tới, mời 2 người lên Đài phát thanh Pháp Á để thu bài ” Trọng Thủy – Mỵ Châu ” rồi được ký luôn hợp đồng thao tác cho đài. Từ đó bà chính thức bước vào nghề hát, vào những của thập niên 50, cặp diễn viên Út Bạch Lan – Thành Được đã làm rạng rỡ sân khấu Kim Chưởng. Bà và Thành Được đã làm nên tên thương hiệu của đoàn Thanh Minh – Thanh Nga, sau đó kết hôn với nghệ sĩ Thành Được. Một thời hạn thì cuộc tình cũng chia tay, bà phải nuôi 4 đứa con của chồng. Là thế hệ sau đó của Phùng Há ( má nuôi Kim Cương ) bà vẫn đang liên tục sự nghiệp của mình. Những năm tháng còn lại của đời bà đã chọn vào cửa Phật, không phải xuống tóc quy y mà đêm gõ mõ tụng kinh, ngày chọn sân chùa làm sân khấu, hát trích đoạn những vở tuồng về Phật để lấy tiền trùng tu, sửa chữa thay thế chùa chiền. [ 2 ]Bà qua đời vào ngày 4 tháng 11 năm năm nay tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 81 tuổi. [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]

Từ cô bé hát dạo[sửa|sửa mã nguồn]

Cha mất sớm, hai mẹ con bé Út đi làm thuê làm mướn quanh khu vực Chợ Bình Tây sinh sống qua ngày. Ngày đó (từ năm 8 tuổi đến năm 13 tuổi) bé Út xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng Bình Tây. Đồng cảnh ngộ với mẹ của Văn Vĩ (khi đó tên là Đinh Văn Dậm) nên 2 bà kết nghĩa chị em, sống chung và cùng đi làm mướn. Cứ thế, năm này qua tháng nọ, những phận nghèo nương tựa cùng nhau. Bị mù từ nhỏ, nhưng Văn Vĩ học đàn guitar cổ nhạc và đàn rất giỏi nên đã dạy cho bé Út ca. Nghe máy hát đĩa của hàng xóm, bé Út ca theo và học thuộc nhiều bản vọng cổ khác. Thấy có người mù đi hát dạo trong chợ, được người ta cho tiền, trong khi đó bé Út và Văn Vĩ làm mướn người ta chỉ cho mớ rau, hay đồ ăn, thức uống… bé Út đã rủ Văn Vĩ lén mẹ đi hát dạo, hy vọng có tiền đỡ đần cho 2 bà mẹ đỡ cực. Vậy là Văn Vĩ (15 tuổi) và bé Út (11 tuổi) cùng cây đàn cũ đi hát dạo từ Chợ Lớn ra tới Chợ Bến Thành (Sài Gòn – Gia Định).[6]

Đến sầu nữ giọng vàng[sửa|sửa mã nguồn]

Tiếng đồn giọng hát làm mê lòng người của cô bé hát dạo đã khiến cô Năm Cần Thơ tò mò tới nghe bé Út ca, và cũng từ đây, cuộc sống bé Út đã có một bước ngoặt mới. Từ cô bé hát rong năm nào nơi vỉa hè góc chợ, bé Út được đứng trên sân khấu lộng lẫy ánh đèn màu và nghệ danh Út Bạch Lan cũng có từ đây. Giữa thập niên 50, Út Bạch Lan khởi đầu được báo chí truyền thông và người theo dõi chú ý quan tâm qua vở dã sử ” Đồ Bàn di hận ” trên sân khấu Thanh Minh. Không ngừng khổ luyện diễn xuất, trau chuốt kỹ thuật ca ngâm, phát minh sáng tạo nét mới, NS Út Bạch Lan đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng người theo dõi qua những vở diễn : Dưới hàng phượng vĩ, Nước mắt kẻ sang Tần, Tình cô gái Huế, Thuyền ra cửa biển, Thần nữ dâng Ngũ Linh Kỳ, Nước chảy qua cầu, Biên Thùy nổi sóng, Tình tráng sĩ, Nhớ rừng, Cung đàn trên sông lạnh, Thiên Thần trên thiết mã, Hoa Mộc Lan, Chén cơm đô thị, Đất Việt của người Việt … Năm 1958, Út Bạch Lan ký hợp đồng về hát cho đoàn Kim Chưởng với nghệ sĩ Thành Được .

Thành công nối tiếp thành công, NS Út Bạch Lan được các hãng đĩa tranh nhau mời thu thanh đĩa đơn, đĩa tuồng đa dạng từ xã hội, cổ tích, sử Việt Nam đến Trung Hoa, Tây, Nhật… với số lượng nhiều nhất so với những danh ca khác. Vai chị Hằng (Vở “Con gái chị Hằng” – Hà Triều – Hoa Phượng) là vai vàng giúp NS Út Bạch Lan đạt tới đỉnh vinh quang khi hóa thân trong bi kịch người mẹ hết dạ thương con, do những bước đi sai lầm đã dẫn đến cái chết thảm, bỏ lại đứa con dại khờ. Tiếp đó, trên SK Kim Chưởng, NS Út Bạch Lan có những vai xuất sắc qua các vở như Kiều Phi Yến (Nửa bản tình ca), Chiêu Trúc Lệ (Thuyền ra cửa biển)… Đặc biệt, với bài ca cổ Hoa lan trắng về cuộc đời của chính NS Út Bạch Lan do soạn giả Viễn Châu viết riêng cho giọng ca bi ai, não nuột của bà đã được nhiều khán giả đặc biệt yêu thích, xúc động trước nỗi niềm “Bao nhiêu mưa gió ngập trời/Hỏi ai còn nhớ một người tên Lan?”.[7] 

Gần 80 tuổi đời và hơn 60 năm gắn bó cùng sân khấu, giọng ca vàng và những vai diễn để đời đã đưa NS Út Bạch Lan lên đỉnh vinh quang của nghệ thuật Cải lương với nhiều giải thưởng, danh hiệu cao quý cùng những biệt danh khán giả và báo giới đã ưu ái dành tặng: Đệ nhất đào thương, Nữ hoàng vọng cổ, Vương nữ Sương chiều, Sầu nữ Út Bạch Lan..

Niềm vui tuổi về già[sửa|sửa mã nguồn]

Niềm vui lớn nhất ở cái tuổi về chiều của Út Bạch Lan là thường cùng các anh chị em nghệ sĩ trong nhóm từ thiện của mình: Diệu Hiền, Tô Châu, Bảo Trân, Thanh Sử,… biểu diễn văn nghệ để gây quỹ từ thiện cho chùa, hoặc giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn.[8]

Sau những nỗi buồn của cuộc sống, bà rất tin vào đạo Phật. Không xuống tóc xuất gia, đêm bà đọc kinh, ngày chọn sân chùa làm sân khấu, hát những bài ca, những vở tuồng về Phật để lấy tiền trùng tu, thay thế sửa chữa chùa chiền. Bà thọ Tam Quy Ngũ Giới với thầy bổn sư là cố TT Thích Minh Phát. [ 9 ]Bây giờ, NSƯT Út Bạch Lan ít đứng trên sân khấu, bà vui với đời sống chay tịnh giản đơn và vẫn miệt mài đem lời ca tiếng hát đi thao tác phước đức cho đời và xem đó là lẽ sống của mình. Bà tâm sự : ” Có đi tận nơi, thấy được nỗi khổ của mọi người. Mới giật mình nhận ra mình có phước vô cùng. Ấy vậy mà nhiều lúc còn không biết hưởng, còn sinh ra lắm chuyện. Út đi nhiều, thấy nhiều nên giờ đây ai nói Út hà tiện Út chịu vì thấy xung quanh người ta còn cơ khổ quá mà mình ăn xài phung phí thì tội lắm. Hồi trẻ không biết, đua đòi nhiều, ai có gì mình phải có nấy. Bây giờ cơm ăn mỗi bữa, áo mặc mỗi ngày … Út đều thầm tạ ơn trời đất đã cho mình có suôn sẻ hơn người. [ 10 ] [ 11 ]

Các vai diễn điển hình nổi bật[sửa|sửa mã nguồn]

Được khẳng định tên tuổi của mình trên sân khấu vào những năm 60 bằng vai cô lái đò trong vở Tình tráng sĩ.

  • Áo trắng nàng Mộng Trinh
  • Bể hận mênh mông (vai bà Năm)
  • Bên cầu dệt lụa (vai Trần mẫu)
  • Bến đồi trăng cũ
  • Chưa tắt lửa lòng
  • Con gái Hoa Mộc Lan
  • Con gái chị Hằng (vai Hằng)
  • Đời cô Lẻ (vai Lẻ)
  • Khi hoa anh đào nở (vai Thái Phượng Liên)
  • Lãng tử giang hồ
  • Mùa thu lá bay (vai bà Dương)
  • Mắt em là bể oan cừu (vai Linh Cơ)
  • Người đẹp Bạch Hoa thôn
  • Người tình trên chiến trận (vai Tiêu mẫu)
  • Nửa bản tình ca (vai Kiều Phi Yến)
  • Nửa đời hương phấn (vai The/Hương)
  • San Hậu (vai Đổng mẫu)
  • Sám hối (vai Cẩm Hương)
  • Hối hận
  • Tấm lòng của biển (vai bà Thảo)
  • Thủ cung sa
  • Tiếng hò sông Hậu (vai bà tư Hậu)
  • Tình mẫu tử (vai bà Trương)
  • Tình tráng sĩ (vai cô lái đò)
  • Thuyền ra cửa biển (vai Chiêu Trúc Lệ)
  • Thái hậu Dương Vân Nga (vai Dương Vân Nga)
  • Tuyệt tình ca (vai bà Lan)
  • Bức thư chiều 29 Tết
  • Biết trả lời sao (Tân nhạc: Duy Khánh; cổ nhạc: Mai Thanh Phương)
  • Buồn theo sóng nước trùng dương (Tác giả: NSND Viễn Châu)
  • Cô gái hái dâu (Tác giả: Quy Sắc)
  • Chiều chia ly (Tân nhạc: Hồng Vân; cổ nhạc: Yên Sơn)
  • Đêm muôn thu (Tác giả: Thu An)
  • Mùa chia tay (Tân nhạc: Duy Khánh)
  • Mẹ dạy con (Tác giả: NSND Viễn Châu)
  • Nuôi chồng (Tác giả: Kiên Giang)
  • Vương Thuý Kiều (Tân nhạc: Thương Linh; cổ nhạc: Nguyễn Liêu)
  • Gánh chè khuya (Tác giả: Thu An)
  • Thương về miền Trung (Tân nhạc: Duy Khánh; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
  • Tiếng sáo giữa trời khuya (Tác giả: Yên Hà – Văn Giai)
  • Tựa bụi cỏ lan (Tác giả: Quy Sắc)
  • Tình thương của mẹ
  • Tìm anh (Tác giả: NSND Viễn Châu)
  • Huyền Trân công chúa (Tác giả: NSND Viễn Châu)
  • Hai phương trời cách biệt (Tân nhạc: Hoàng Trọng; cổ nhạc: Nguyễn Liêu)
  • Phận làm dâu
  • Lan (Tác giả: Thể Hà Vân – NSND Viễn Châu)
  • Lưu Nguyễn biệt thiên thai (Tác giả: NSND Viễn Châu)
  • Lệ rơi trong mái tranh nghèo (Tác giả: Song Giang)
  • Lâu đài tình ái (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Vắt sữa nai nuôi mẹ (Tác giả : NSND Viễn Châu)
  • Dứt đường tơ (Tác giả : Viễn Châu)
  • Khuya nay anh đi rồi (Giọt Mưa Khuya) (Tân nhạc: Thăng Long; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Giấc ngủ cô đơn ( Tân nhạc: Anh Bằng, Lê Dinh ; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Đồi Sim (Khi Mình Xa Nhau) ( Tân nhạc: Anh Bằng; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Sao chưa thấy hồi âm (Tân nhạc: Châu Kỳ; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Yêu (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Một đời yêu anh (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Tình đêm phố cũ (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Viễn Châu)
  • Đèn khuya (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Viễn Châu)