So sánh giá giữa các siêu thị

Nơi bán thấp, chỗ cao gấp đôi

Chị Hà Nguyên ( Q. 7, Thành Phố Hồ Chí Minh ) mới gần đây tới siêu thị Lotte trên đường Nguyễn Hữu Thọ mua đồ đã “ giật mình ” khi thấy đa phần sản phẩm & hàng hóa có giá quá cao so với mặt phẳng chung. Chẳng hạn, loại sầu riêng 9 Phẻ giá 225.000 đồng / kg ( cả vỏ ), một hộp 405 gr chỉ có 2 múi sầu riêng được lột sẵn bán 399.000 đồng / hộp. “ Như vậy 1 kg sầu riêng lột vỏ bán cả triệu bạc, quá đắt. Chỉ cách đó 2 ngày mình mua sầu riêng 6 Ri cũng là loại nổi tiếng từ Bến Tre mang lên có 80.000 đồng / kg cả vỏ. Nay tự dưng nhìn trái sầu riêng có giá gần gấp 3 lần mà “ xây xẩm ” mặt mày ”, chị Hà Nguyên san sẻ. Những loại trái cây nhập khẩu và trong nước được bán tại đây giá cũng khá cao nếu so với các siêu thị khác. Chẳng hạn, bưởi hồng da xanh túi lưới bán tại BigC giá khuyến mại tính đến ngày 28.2 là 40.000 đồng / kg ( giá chưa khuyễn mãi thêm là 60.000 đồng / kg ), tại Lotte là 85.000 đồng / kg .Nội dung chính

  • Nơi bán thấp, chỗ cao gấp đôi
  • Siêu thị thưa khách, vẫn giới hạn mua sắm trong 10 phút
  • Thế khó của siêu thị ở TP.HCM
  • SO SÁNH CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀ GIÁ CẢ HÀNG HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ VỚI CÁC LOẠI HÌNH BÁN LẺ TRUYỀN THỐNG
  • Video liên quan

Tương tự, dâu tây Nước Hàn ở Lotte bán 139.000 đồng / hộp 250 gr ( tương tự 556.000 đồng / kg ) thì cũng chính loại dâu này, khối lượng này tại BigC giá 119.000 đồng / hộp. Táo Envy 255.000 đồng / hộp 3 trái lớn và nho đen không hạt Nam Phi 179.000 đồng / kg tại Lotte, nhưng ở siêu thị Aeon Tân Phú lần lượt 235.000 đồng / hộp 3 trái lớn và 160.000 đồng / kg. Cam xoàn Lotte bán giá 46.000 đồng / kg, BigC bán giá 32.000 đồng / kg. Thanh long ruột đỏ tại Aeon Tân Phú đang bán giá 33.000 đồng / kg, nhưng cùng loại này tại BigC 24.000 đồng / kg .

Giá thực phẩm còn “loạn” hơn và Aeon dẫn đầu về đắt. Chẳng hạn, giá sườn non heo ở Aeon Tân Phú dẫn đầu với 290.000 đồng/kg, trong khi đó ở siêu thị Lotte là 285.000 đồng/kg, tại Co.opMart 280.000 đồng/kg và BigC 225.000 đồng/kg. Thịt ba rọi tại Lotte từ 235.000 – 260.000 đồng/kg, Aeon từ 183.000 – 233.000 đồng/kg, BigC 179.000 đồng/kg. Nạc dăm ở Lotte 185.000 đồng/kg, BigC 161.000 đồng/kg…

Chuyên shopping tại nhiều siêu thị khác nhau nhưng bà Hồng Vân ( Q.Tân Bình ) cũng không hiểu vì sao Chi tiêu lại chênh nhau quá nhiều. “ Cùng mẫu sản phẩm, cùng nhà đáp ứng là CP, nhưng thịt của CP bán tại BigC lại thấp hơn tại Aeon. Chẳng hạn, thịt cốt lết của CP bán tại Aeon Tân Phú tôi mua tối 24.2 giá 43.000 đồng / 300 gr ( khoảng chừng 143.000 đồng / kg ), tại Lotte niêm yết sáng 25.2 là 127.000 đồng / kg, Co. opMart 124.000 đồng / kg. Thăn bò Mỹ 449.000 đồng / kg và thăn bò nội 360.000 đồng / kg được bán tại Lotte nhưng ở Co. opMart, thăn bò nội 330.000 đồng / kg, thăn bò Mỹ 370.000 đồng. Hoặc cá hồi nhập khẩu nguyên con tại BigC giá 379.000 đồng / kg tại Lotte là 469.000 đồng / kg. Không hiểu nổi ”, bà Vân nói .

Siêu thị thưa khách, vẫn giới hạn mua sắm trong 10 phút

Sáng 15/7, một số ít siêu thị, shop thực phẩm không còn cảnh xếp hàng dài chờ shopping ; các mẫu sản phẩm rau, thịt, cá đều dồi dào.

Thế khó của siêu thị ở TP.HCM

Các mạng lưới hệ thống kinh doanh bán lẻ thừa nhận đang thiếu vắng nhân lực trầm trọng và gặp khó trong khâu logistics, trong khi dân cư đổ xô mua hàng càng gây áp lực đè nén lớn hơn.

SO SÁNH CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀ GIÁ CẢ HÀNG HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ VỚI CÁC LOẠI HÌNH BÁN LẺ TRUYỀN THỐNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản không thiếu của tài liệu tại đây ( 188.54 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC…………………………………………………………………………………………..1
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………..2
PHẦN 1: THỰC TRẠNG CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀ GIÁ CẢ
HÀNG HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ Ở HÀ NỘI THEO QUAN ĐIỂM
CỦA KHÁCH HÀNG………………………………………………………………………….3
1. Khái niệm về siêu thị………………………………………………………………………3
2. Sự hình thành và phát triển của hệ thống siêu thị tại Việt Nam…………….4
3. Đánh giá chung về hệ thống siêu thị hiện nay ở Việt Nam…………………..5
PHẦN 2: SO SÁNH CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀ GIÁ CẢ HÀNG
HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ VỚI CÁC LOẠI HÌNH BÁN LẺ
TRUYỀN THỐNG………………………………………………………………………………8
1. Những đặc trưng nổi bật phân biệt siêu thị………………………………………..8
2. Siêu thị trong mạng lưới phân phối bán lẻ hiện đại…………………………..10
3. Bảng phân tích swot giữa siêu thị và chợ truyền thống……………………..11
1. Những căn cứ chính để định hướng phát triển siêu thị tại Việt Nam……15
2. Những giải pháp cần thiết cho việc phát triển mạng lưới siêu thị ở Việt
Nam……………………………………………………………………………………………….16
2.1. Mô hình tương lai của siêu thị Việt Nam:…………………………………..16
2.2. Các giải pháp từ phía Chính phủ:…………………………………………….17
2.3. Những giải pháp từ phía doanh nghiệp:…………………………………….19
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………….23
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 1 Lớp: Marketing 46A
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thương mại bán lẻ Việt
Nam diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công cuộc Đổi mới, xây
dựng nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế với thế giới và khu
vực. Các loại hình thương mại văn minh hiện đại, trong đó có siêu thị mà
trước đây rất ít người Việt Nam biết tới đã xuất hiện và dần trở nên phổ biến
ở Việt Nam, nhất là ở các thành phố như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Kinh doanh siêu thị ra đời đã làm thay đổi diện mạo ngành thương mại

bán lẻ của đất nước, mở ra một loại cửa hàng văn minh, hiện đại và tiện nghi
cho người mua sắm Việt Nam, làm thay đổi cả các thói quen mua sắm truyền
thống và đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước nói chung.
Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển của hệ thống siêu thị ở Việt
Nam thời gian qua còn mang nặng tính chất tự phát, thiếu sự chỉ đạo và thống
nhất quản lý của nhà nước nên không tránh khỏi tính bấp bênh, tản mạn, thiếu
hiệu quả và chưa thực sự đảm bảo được văn minh thương nghiệp làm giảm ý
nghĩa, tác dụng của siêu thị trên thực tế.
Để khắc phục hiện trạng này, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và
người dân Việt Nam cần học hỏi và tiếp thu những kiến thức về thương mại
văn minh hiện đại của thế giới và ứng dụng một cách sáng tạo vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam.
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 2 Lớp: Marketing 46A
PHẦN 1: THỰC TRẠNG CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀ
GIÁ CẢ HÀNG HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ Ở HÀ NỘI
THEO QUAN ĐIỂM CỦA KHÁCH HÀNG.
1. Khái niệm về siêu thị
“Siêu thị” là từ được dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài – “supermarket”
(tiếng Anh) hay “supermarché”( tiếng Pháp), trong đó “super” nghĩa là “siêu”
và “market” là “chợ”. Hiện nay, khái niệm siêu thị được định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau tùy theo từng quốc gia, ví dụ:
– Nước Mỹ coi siêu thị là “cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức
chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối luợng hàng hóa bán ra lớn,
đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt,
các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa” (Philips Kotler,
“Marketing căn bản”).
– Siêu thị ở Pháp được định nghĩa là “cửa hàng bán lẻ theo phương thức
tự phục vụ có diện tích từ 400m
2
đến 2500m

2
chủ yếu bán hàng thực
phẩm”( Marc Benoun,”Marketing: Savoir et savoir-faire”,1991).
Hay còn có những định nghĩa khác về siêu thị như:
“Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực phẩm, đồ uống, dụng
cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác” ( Từ điển kinh tế thị trường từ
A đến Z)
Tóm lại, có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị nhưng từ
các định nghĩa khác nhau này, người ta vẫn thấy những nét chung nhất cho
phép phân biệt siêu thị với các dạng cửa hàng bán lẻ khác. Đó là siêu thị áp
dụng phương thức tự phục vụ và hàng hóa chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
hàng ngày.
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 3 Lớp: Marketing 46A
2. Sự hình thành và phát triển của hệ thống siêu thị tại Việt Nam.
Chúng ta có thể khái quát những nét chính của “siêu thị” ở Việt Nam
thời gian 10 năm qua như sau:
– Thời kỳ 1993 – 1994: Những siêu thị đầu tiên ra đời tại thành phố Hồ
Chí Minh: Siêu thị chính thức xuất hiện vào những năm 1993 – 1994 khi nền
kinh tế Việt Nam bắt đầu khởi sắc, đời sống nhân dân được cải thiện, nhất là
ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đi tiên phong là Minimart, “siêu thị”
thuộc công ty Vũng Tàu Sinhanco khai trương tháng 10/1993, nằm ngay trong
Intershop nhưng quy mô còn rất nhỏ và khách hàng chủ yếu là người nước
ngoài. Sau siêu thị của Sinhanco, một loạt các siêu thị khác tiếp tục xuất hiện
ở khu vực trung tâm quận Một, quận Ba và quận Năm, về sau lan ra các vùng
ven như Gò Vấp, Tân Bình…
– Thời kỳ 1995 – 1997: Mở rộng ra các thành phố lớn trên cả nước:
Trong thời kỳ này bắt đầu có sự góp mặt của các siêu thị ở Hà Nội như siêu
thị thuộc trung tâm thương mại Đinh Tiên Hoàng (1/1995) và Minimart Hà
Nội (3/1995) trên tầng 2 chợ Hôm. Tuy nhiên, vào thời điểm cuối năm 1995

đầu 1996, ở TP Hồ Chí Minh đã xuất hiện những siêu thị có quy mô lớn hơn
về diện tích và chủng loại hàng hóa như Coopmart, Maximart… được tổ chức
theo hình thức liên hợp bao gồm các khu vực bán hàng hóa, ăn uống, giải trí…
Hàng hóa cũng bắt đầu đa dạng hơn, một số siêu thị đã có 5000 – 6000 mặt
hàng, diện tích kinh doanh lớn tới 3000 – 4000 m
2
như Maximart, Vinamart …
Trong khi đó, các siêu thị ở Hà Nội cũng đua nhau ra mắt nhưng quy mô nhỏ
hơn, các mặt hàng đơn điệu, số lượng ít hơn.
– Thời kỳ từ năm 1998 đến nay: Cạnh tranh, đào thải và chuyên nghiệp
hơn: Do sự xuất hiện ồ ạt, kinh doanh không bài bản, thiếu kiến thức thương
nghiệp và phải cạnh tranh với các hình thức bán lẻ truyền thống như chợ, cửa
hàng, hàng rong và cạnh tranh lẫn nhau nên rất nhiều “sản phẩm” gọi là siêu
thị đó đã vỡ nợ, phá sản, làm ăn thua lỗ và mấp mé bên bờ vực phá sản.
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 4 Lớp: Marketing 46A
Những siêu thị còn tồn tại và phát triển là nhờ những nhà quản lý tỉnh táo
hơn, biết hướng “siêu thị” của mình đi đúng quỹ đạo và cho ra đời những sản
phẩm theo đúng nghĩa “supermarket” hơn như Sài Gòn Superbowl, liên doanh
giữa Việt Nam và Singapore, siêu thị Miền Đông (tổng diện tích 10.000m
2
, có
đầy đủ các khu kinh doanh hàng hóa, nhà hàng, giải trí, bãi để xe), đại siêu thị
Cora (tổng diện tích 20.000m
2
, vốn đầu tư 20 triệu USD tại khu công nghiệp
Biên Hòa có 20.000 mặt hàng trưng bày theo tiêu chuẩn hệ thống siêu thị trên
thế giới của tập đoàn Bourbon (Pháp)… ở Hà Nội hoạt động kinh doanh siêu
thị cũng bắt đầu có những nét mới: nhiều siêu thị mới ra đời và được đặt trong
tổng thể các mô hình trung tâm thương mại lớn: Hà Nội Tower, Starbowl,
Fivimart, Tràng tiền Plaza…

3. Đánh giá chung về hệ thống siêu thị hiện nay ở Việt Nam.
Có thể nói, đến nay Việt Nam đã hình thành mạng lưới siêu thị ở các
thành phố và đô thị lớn trong cả nước và các siêu thị đã góp phần không nhỏ
vào việc tạo ra một diện mạo mới cho thương mại bán lẻ ở Việt Nam, góp
phần nâng cao văn minh thương nghiệp, đáp ứng được nhu cầu mua sắm của
các đối tượng khách hàng là tầng lớp trung lưu của Việt Nam…
Tuy nhiên, do là một lĩnh vực kinh doanh còn khá mới mẻ ở nước ta cho
nên kinh doanh siêu thị không thể tránh khỏi những hạn chế và bỡ ngỡ đối với
cả nhà kinh doanh và người mua sắm. Có thể khái quát những tồn tại và hạn
chế của hệ thống siêu thị Việt Nam trên các điểm sau đây:
– Mô hình phổ biến của siêu thị: Nhìn chung, đa phần các siêu thị ở Việt
Nam đều có quy mô nhỏ hẹp và mới chỉ dừng ở mức độ các cửa hàng tự chọn
chứ chưa phải là tự phục vụ, đúng với nghĩa của “Supermarket”.
– Hàng hóa trong siêu thị: Nếu nhìn vào số lượng hàng hóa của mỗi siêu
thị thì có thể thấy đa số các siêu thị có danh mục hàng tương đối phong phú
song xét về chủng loại thì vẫn còn nghèo nàn. ở các nước công nghiệp phát
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 5 Lớp: Marketing 46A
triển, siêu thị được coi là nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho người tiêu
dùng. 70% thực phẩm của người Pháp được mua tại các siêu thị và đại siêu
thị, còn lại là tại các cửa hàng tiện dụng và cửa hàng tự phục vụ nhỏ. Trong
khi đó, ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu á khác, siêu thị chỉ cung cấp
lượng nhỏ thực phẩm hàng ngày của người tiêu dùng.
Chất lượng hàng hóa trong siêu thị nhìn chung tốt. Hầu hết hàng bày bán
trong siêu thị có nguồn gốc rõ ràng, đầy đủ nhãn mác và được kiểm tra chất
lượng một cách nghiêm ngặt. Tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng người tiêu dùng
mua phải hàng quá hạn sử dụng hay chất lượng chưa đảm bảo…
Việc quản lý và trưng bầy hàng hóa trong các siêu thị vẫn còn nhiều vấn
đề, rất ít siêu thị mà toàn bộ hàng hóa được quản lý theo mã vạch. Nhiều hàng
hóa được gắn mã số, có nơi mã số được viết bằng tay. Quản lý hàng bằng mã
số gây cản trở rất nhiều trong việc tính toán, lưu giữ số liệu, vừa mất thời gian

lại rất dễ có sai sót… Hệ thống máy quét scanner, máy tính quản lý hàng hóa
chưa được trang bị thích đáng nhằm tăng hiệu quả của công tác quản lý lưu
kho, nhập hàng và lượng hàng tồn, hàng mất mát…
– Giá cả: Một điều trái ngược mà ta có thể thấy rõ là trong khi các siêu
thị ở các nước thường bán với mức giá thấp và trung bình thì giá hàng hoá
trong các siêu thị Việt Nam thường cao hơn so với giá ở bên ngoài của các
cửa hàng bách hoá hay giá chợ.
Nguyên nhân của sự chênh lệch này được lý giải theo nhiều cách. Siêu
thị phải chịu chi phí lớn như: tiền thuê mặt bằng, cải tạo và xây dựng thành
cửa hàng, trang thiết bị, tiền điện nước, lương nhân viên, thuế… Mặt khác,
nhiều siêu thị phải nhập hàng với giá cao do siêu thị bán nhiều mặt hàng khác
nhau mà số lượng mỗi loại cũng không nhiều đủ để làm đại lý cho các hãng
sản xuất, do đó phải nhập hàng từ các đại lý khiến cho giá bị đội lên. Hiện
nay, tình trạng hàng bị mất cắp xảy ra khá phổ biến, các siêu thị phải cộng
thêm cả tỉ lệ mất mát vào giá bán, khiến giá bán cao lên…
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 6 Lớp: Marketing 46A
Có thể nói giá bán cao tại các siêu thị đang là thách thức lớn. Giá bán
cao khi các siêu thị đã trở nên phổ biến và điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn
khiến các siêu thị gặp nhiều khó khăn hơn trong việc thu hút được khách hàng
từ các loại hình bán lẻ truyền thống như chợ, cửa hàng tạp hoá …
– Một thực trạng đáng lo ngại về hoạt động của các siêu thị hiện nay là
lượng khách hàng rất ít và có xu hướng giảm. Nguyên nhân chính của vấn đề
này có lẽ là do các siêu thị vẫn coi khách hàng mục tiêu của mình là tầng lớp
trung lưu trở lên và tập trung khai thác chứ ít chịu tái đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, mở rộng cơ sở và nâng cao chất lượng phục vụ.
– Nguồn nhân lực: Không có gì là ngạc nhiên khi nguồn nhân lực kinh
doanh siêu thị ở Việt Nam (kể cả các nhà quản lý và nhân viên siêu thị) chưa
có kinh nghiệm và thiếu tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực hoạt động này.
Tính thiếu chuyên nghiệp biểu hiện ở đặc điểm về quy mô và tổ chức của siêu
thị, ở đội ngũ nhân viên siêu thị chưa qua trường lớp cơ bản về nghiệp vụ siêu

thị cũng như dịch vụ khách hàng do các siêu thị cung cấp còn nghèo nàn, chất
lượng thấp, hoạt động quảng cáo chưa được tiến hành theo các chương trình
bài bản và mạnh mẽ, việc sắp xếp trưng bày hàng hóa chưa trở thành yếu tố
quan trọng để thu hút khách hàng …
Tóm lại, có thể nhận định rằng mạng lưới siêu thị của Việt Nam hiện nay
mới đang ở giai đoạn đầu hình thành và phát triển, tuy đã đạt được những
thành công nhất định, nhưng để phát triển mạng lưới kinh doanh siêu thị văn
minh hiện đại ở Việt Nam còn cần các nỗ lực mạnh mẽ từ cả phía nhà nước,
doanh nghiệp và toàn xã hội.
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 7 Lớp: Marketing 46A
PHẦN 2: SO SÁNH CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀ GIÁ
CẢ HÀNG HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ VỚI CÁC LOẠI
HÌNH BÁN LẺ TRUYỀN THỐNG.
1. Những đặc trưng nổi bật phân biệt siêu thị
– Siêu thị trước hết là cửa hàng bán lẻ: Mặc dù được định nghĩa là “chợ”
song đây được coi là loại “chợ” ở mức phát triển cao, được quy hoạch và tổ
chức kinh doanh dưới hình thức những cửa hàng bề thế, có trang thiết bị và cơ
sở vật chất hiện đại, văn minh, do thương nhân đầu tư và quản lý, được Nhà
nước cấp phép hoạt động. Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ – bán hàng hóa
trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bán
lại.
– Siêu thị sáng tạo và áp dụng phương thức tự phục vụ:
Khi nói đến siêu thị người ta không thể không nghĩ tới “tự phục vụ”, một
phương thức bán hàng do siêu thị sáng tạo ra, được ứng dụng trong nhiều loại
cửa hàng bán lẻ khác và là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội văn
minh công nghiệp hóa… ở đây cũng cần phân biệt giữa phương thức tự chọn
và tự phục vụ:
+ Tự chọn: khách hàng sau khi chọn mua được hàng hoá sẽ đến chỗ
người bán để trả tiền hàng, tuy nhiên trong quá trình mua vẫn có sự giúp đỡ,
hướng dẫn của người bán.

+ Tự phục vụ: khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào giỏ hoặc
xe đẩy đem đi và thanh toán tại quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bán
vắng bóng trong quá trình mua hàng.
Chính thức ra đời từ những năm 1930, tự phục vụ đã trở thành công thức
chung cho ngành công nghiệp phân phối ở các nước phát triển. Tự phục vụ
đồng nghĩa với văn minh thương nghiệp hiện đại. Nó có nhiều ưu điểm so với
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 8 Lớp: Marketing 46A
cách bán hàng truyền thống: doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí bán
hàng, đặc biệt là chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng (thường chiếm tới
30% tổng chi phí kinh doanh). Tự phục vụ giúp người mua cảm thấy thoải
mái khi được tự do lựa chọn, ngắm nghía, so sánh hàng hóa mà không cảm
thấy bị ngăn trở từ phía người bán.
Do áp dụng phương thức tự phục vụ, giá cả trong các siêu thị được niêm
yết rõ ràng để người mua không phải tốn công mặc cả, tiết kiệm được thời
gian và hàng hóa bày bán trong siêu thị thường là những hàng hóa tiêu dùng
phổ biến.
Ngoài ra, phương thức thanh toán tại các siêu thị rất thuận tiện. Hàng
hóa gắn mã vạch, mã số được đem ra quầy tính tiền ở cửa ra vào, dùng máy
quét scanner để đọc giá, tính tiền bằng máy và tự động in hóa đơn. Hình ảnh
các quầy tính tiền tự động luôn là biểu tượng cho các cửa hàng tự phục vụ.
Đây chính là tính chất “siêu” của siêu thị, đem đến cảm giác thoải mái, hài
lòng, tự tin và sự thỏa mãn cao nhất cho người mua sắm…
Có thể khẳng định rằng phương thức tự phục vụ là sáng tạo kỳ diệu của
kinh doanh siêu thị và là cuộc đại “cách mạng” trong lĩnh vực thương mại bán
lẻ mà người lãnh đạo không ai khác là kinh doanh siêu thị.
– Siêu thị sáng tạo nghệ thuật trưng bày hàng hoá:
Ngoài việc sáng tạo ra phương thức bán hàng tự phục vụ, đóng góp của
siêu thị cho hệ thống bán lẻ còn là nghệ thuật trưng bày hàng hoá. Các siêu thị
cũng là những nhà bán lẻ đầu tiên nghĩ đến tầm quan trọng của nghệ thuật
trình bày hàng hoá và nghiên cứu cách thức vận động của người mua hàng khi

vào cửa hàng. Nhiều cửa hàng bán lẻ khác, dựa trên cơ sở các nghiên cứu của
siêu thị để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khách hàng sâu sắc hơn nhằm
tối đa hoá hiệu quả của không gian bán hàng.
Sinh viên: Trần Ngọc Anh 9 Lớp: Marketing 46A

bán lẻ của đất nước, mở ra một loại cửa hàng văn minh, hiện đại và tiện nghicho người mua sắm Việt Nam, làm thay đổi cả các thói quen mua sắm truyềnthống và đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước nói chung.Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển của hệ thống siêu thị ở ViệtNam thời gian qua còn mang nặng tính chất tự phát, thiếu sự chỉ đạo và thốngnhất quản lý của nhà nước nên không tránh khỏi tính bấp bênh, tản mạn, thiếuhiệu quả và chưa thực sự đảm bảo được văn minh thương nghiệp làm giảm ýnghĩa, tác dụng của siêu thị trên thực tế.Để khắc phục hiện trạng này, các nhà quản lý, các doanh nghiệp vàngười dân Việt Nam cần học hỏi và tiếp thu những kiến thức về thương mạivăn minh hiện đại của thế giới và ứng dụng một cách sáng tạo vào điều kiệncụ thể của Việt Nam.Sinh viên: Trần Ngọc Anh 2 Lớp: Marketing 46APHẦN 1: THỰC TRẠNG CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀGIÁ CẢ HÀNG HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ Ở HÀ NỘITHEO QUAN ĐIỂM CỦA KHÁCH HÀNG.1. Khái niệm về siêu thị”Siêu thị” là từ được dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài – “supermarket”(tiếng Anh) hay “supermarché”( tiếng Pháp), trong đó “super” nghĩa là “siêu”và “market” là “chợ”. Hiện nay, khái niệm siêu thị được định nghĩa theo nhiềucách khác nhau tùy theo từng quốc gia, ví dụ:- Nước Mỹ coi siêu thị là “cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mứcchi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối luợng hàng hóa bán ra lớn,đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt,các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa” (Philips Kotler,”Marketing căn bản”).- Siêu thị ở Pháp được định nghĩa là “cửa hàng bán lẻ theo phương thứctự phục vụ có diện tích từ 400mđến 2500mchủ yếu bán hàng thựcphẩm”( Marc Benoun,”Marketing: Savoir et savoir-faire”,1991).Hay còn có những định nghĩa khác về siêu thị như:”Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng nhucầu tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực phẩm, đồ uống, dụngcụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác” ( Từ điển kinh tế thị trường từA đến Z)Tóm lại, có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị nhưng từcác định nghĩa khác nhau này, người ta vẫn thấy những nét chung nhất chophép phân biệt siêu thị với các dạng cửa hàng bán lẻ khác. Đó là siêu thị ápdụng phương thức tự phục vụ và hàng hóa chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu dùnghàng ngày.Sinh viên: Trần Ngọc Anh 3 Lớp: Marketing 46A2. Sự hình thành và phát triển của hệ thống siêu thị tại Việt Nam.Chúng ta có thể khái quát những nét chính của “siêu thị” ở Việt Namthời gian 10 năm qua như sau:- Thời kỳ 1993 – 1994: Những siêu thị đầu tiên ra đời tại thành phố HồChí Minh: Siêu thị chính thức xuất hiện vào những năm 1993 – 1994 khi nềnkinh tế Việt Nam bắt đầu khởi sắc, đời sống nhân dân được cải thiện, nhất làở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đi tiên phong là Minimart, “siêu thị”thuộc công ty Vũng Tàu Sinhanco khai trương tháng 10/1993, nằm ngay trongIntershop nhưng quy mô còn rất nhỏ và khách hàng chủ yếu là người nướcngoài. Sau siêu thị của Sinhanco, một loạt các siêu thị khác tiếp tục xuất hiệnở khu vực trung tâm quận Một, quận Ba và quận Năm, về sau lan ra các vùngven như Gò Vấp, Tân Bình…- Thời kỳ 1995 – 1997: Mở rộng ra các thành phố lớn trên cả nước:Trong thời kỳ này bắt đầu có sự góp mặt của các siêu thị ở Hà Nội như siêuthị thuộc trung tâm thương mại Đinh Tiên Hoàng (1/1995) và Minimart HàNội (3/1995) trên tầng 2 chợ Hôm. Tuy nhiên, vào thời điểm cuối năm 1995đầu 1996, ở TP Hồ Chí Minh đã xuất hiện những siêu thị có quy mô lớn hơnvề diện tích và chủng loại hàng hóa như Coopmart, Maximart… được tổ chứctheo hình thức liên hợp bao gồm các khu vực bán hàng hóa, ăn uống, giải trí…Hàng hóa cũng bắt đầu đa dạng hơn, một số siêu thị đã có 5000 – 6000 mặthàng, diện tích kinh doanh lớn tới 3000 – 4000 mnhư Maximart, Vinamart …Trong khi đó, các siêu thị ở Hà Nội cũng đua nhau ra mắt nhưng quy mô nhỏhơn, các mặt hàng đơn điệu, số lượng ít hơn.- Thời kỳ từ năm 1998 đến nay: Cạnh tranh, đào thải và chuyên nghiệphơn: Do sự xuất hiện ồ ạt, kinh doanh không bài bản, thiếu kiến thức thươngnghiệp và phải cạnh tranh với các hình thức bán lẻ truyền thống như chợ, cửahàng, hàng rong và cạnh tranh lẫn nhau nên rất nhiều “sản phẩm” gọi là siêuthị đó đã vỡ nợ, phá sản, làm ăn thua lỗ và mấp mé bên bờ vực phá sản.Sinh viên: Trần Ngọc Anh 4 Lớp: Marketing 46ANhững siêu thị còn tồn tại và phát triển là nhờ những nhà quản lý tỉnh táohơn, biết hướng “siêu thị” của mình đi đúng quỹ đạo và cho ra đời những sảnphẩm theo đúng nghĩa “supermarket” hơn như Sài Gòn Superbowl, liên doanhgiữa Việt Nam và Singapore, siêu thị Miền Đông (tổng diện tích 10.000m, cóđầy đủ các khu kinh doanh hàng hóa, nhà hàng, giải trí, bãi để xe), đại siêu thịCora (tổng diện tích 20.000m, vốn đầu tư 20 triệu USD tại khu công nghiệpBiên Hòa có 20.000 mặt hàng trưng bày theo tiêu chuẩn hệ thống siêu thị trênthế giới của tập đoàn Bourbon (Pháp)… ở Hà Nội hoạt động kinh doanh siêuthị cũng bắt đầu có những nét mới: nhiều siêu thị mới ra đời và được đặt trongtổng thể các mô hình trung tâm thương mại lớn: Hà Nội Tower, Starbowl,Fivimart, Tràng tiền Plaza…3. Đánh giá chung về hệ thống siêu thị hiện nay ở Việt Nam.Có thể nói, đến nay Việt Nam đã hình thành mạng lưới siêu thị ở cácthành phố và đô thị lớn trong cả nước và các siêu thị đã góp phần không nhỏvào việc tạo ra một diện mạo mới cho thương mại bán lẻ ở Việt Nam, gópphần nâng cao văn minh thương nghiệp, đáp ứng được nhu cầu mua sắm củacác đối tượng khách hàng là tầng lớp trung lưu của Việt Nam…Tuy nhiên, do là một lĩnh vực kinh doanh còn khá mới mẻ ở nước ta chonên kinh doanh siêu thị không thể tránh khỏi những hạn chế và bỡ ngỡ đối vớicả nhà kinh doanh và người mua sắm. Có thể khái quát những tồn tại và hạnchế của hệ thống siêu thị Việt Nam trên các điểm sau đây:- Mô hình phổ biến của siêu thị: Nhìn chung, đa phần các siêu thị ở ViệtNam đều có quy mô nhỏ hẹp và mới chỉ dừng ở mức độ các cửa hàng tự chọnchứ chưa phải là tự phục vụ, đúng với nghĩa của “Supermarket”.- Hàng hóa trong siêu thị: Nếu nhìn vào số lượng hàng hóa của mỗi siêuthị thì có thể thấy đa số các siêu thị có danh mục hàng tương đối phong phúsong xét về chủng loại thì vẫn còn nghèo nàn. ở các nước công nghiệp phátSinh viên: Trần Ngọc Anh 5 Lớp: Marketing 46Atriển, siêu thị được coi là nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho người tiêudùng. 70% thực phẩm của người Pháp được mua tại các siêu thị và đại siêuthị, còn lại là tại các cửa hàng tiện dụng và cửa hàng tự phục vụ nhỏ. Trongkhi đó, ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu á khác, siêu thị chỉ cung cấplượng nhỏ thực phẩm hàng ngày của người tiêu dùng.Chất lượng hàng hóa trong siêu thị nhìn chung tốt. Hầu hết hàng bày bántrong siêu thị có nguồn gốc rõ ràng, đầy đủ nhãn mác và được kiểm tra chấtlượng một cách nghiêm ngặt. Tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng người tiêu dùngmua phải hàng quá hạn sử dụng hay chất lượng chưa đảm bảo…Việc quản lý và trưng bầy hàng hóa trong các siêu thị vẫn còn nhiều vấnđề, rất ít siêu thị mà toàn bộ hàng hóa được quản lý theo mã vạch. Nhiều hànghóa được gắn mã số, có nơi mã số được viết bằng tay. Quản lý hàng bằng mãsố gây cản trở rất nhiều trong việc tính toán, lưu giữ số liệu, vừa mất thời gianlại rất dễ có sai sót… Hệ thống máy quét scanner, máy tính quản lý hàng hóachưa được trang bị thích đáng nhằm tăng hiệu quả của công tác quản lý lưukho, nhập hàng và lượng hàng tồn, hàng mất mát…- Giá cả: Một điều trái ngược mà ta có thể thấy rõ là trong khi các siêuthị ở các nước thường bán với mức giá thấp và trung bình thì giá hàng hoátrong các siêu thị Việt Nam thường cao hơn so với giá ở bên ngoài của cáccửa hàng bách hoá hay giá chợ.Nguyên nhân của sự chênh lệch này được lý giải theo nhiều cách. Siêuthị phải chịu chi phí lớn như: tiền thuê mặt bằng, cải tạo và xây dựng thànhcửa hàng, trang thiết bị, tiền điện nước, lương nhân viên, thuế… Mặt khác,nhiều siêu thị phải nhập hàng với giá cao do siêu thị bán nhiều mặt hàng khácnhau mà số lượng mỗi loại cũng không nhiều đủ để làm đại lý cho các hãngsản xuất, do đó phải nhập hàng từ các đại lý khiến cho giá bị đội lên. Hiệnnay, tình trạng hàng bị mất cắp xảy ra khá phổ biến, các siêu thị phải cộngthêm cả tỉ lệ mất mát vào giá bán, khiến giá bán cao lên…Sinh viên: Trần Ngọc Anh 6 Lớp: Marketing 46ACó thể nói giá bán cao tại các siêu thị đang là thách thức lớn. Giá báncao khi các siêu thị đã trở nên phổ biến và điều kiện cạnh tranh gay gắt hơnkhiến các siêu thị gặp nhiều khó khăn hơn trong việc thu hút được khách hàngtừ các loại hình bán lẻ truyền thống như chợ, cửa hàng tạp hoá …- Một thực trạng đáng lo ngại về hoạt động của các siêu thị hiện nay làlượng khách hàng rất ít và có xu hướng giảm. Nguyên nhân chính của vấn đềnày có lẽ là do các siêu thị vẫn coi khách hàng mục tiêu của mình là tầng lớptrung lưu trở lên và tập trung khai thác chứ ít chịu tái đầu tư vào cơ sở hạtầng, mở rộng cơ sở và nâng cao chất lượng phục vụ.- Nguồn nhân lực: Không có gì là ngạc nhiên khi nguồn nhân lực kinhdoanh siêu thị ở Việt Nam (kể cả các nhà quản lý và nhân viên siêu thị) chưacó kinh nghiệm và thiếu tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực hoạt động này.Tính thiếu chuyên nghiệp biểu hiện ở đặc điểm về quy mô và tổ chức của siêuthị, ở đội ngũ nhân viên siêu thị chưa qua trường lớp cơ bản về nghiệp vụ siêuthị cũng như dịch vụ khách hàng do các siêu thị cung cấp còn nghèo nàn, chấtlượng thấp, hoạt động quảng cáo chưa được tiến hành theo các chương trìnhbài bản và mạnh mẽ, việc sắp xếp trưng bày hàng hóa chưa trở thành yếu tốquan trọng để thu hút khách hàng …Tóm lại, có thể nhận định rằng mạng lưới siêu thị của Việt Nam hiện naymới đang ở giai đoạn đầu hình thành và phát triển, tuy đã đạt được nhữngthành công nhất định, nhưng để phát triển mạng lưới kinh doanh siêu thị vănminh hiện đại ở Việt Nam còn cần các nỗ lực mạnh mẽ từ cả phía nhà nước,doanh nghiệp và toàn xã hội.Sinh viên: Trần Ngọc Anh 7 Lớp: Marketing 46APHẦN 2: SO SÁNH CHỦNG LOẠI,CHẤT LƯỢNG VÀ GIÁCẢ HÀNG HÓA TRONG CÁC SIÊU THỊ VỚI CÁC LOẠIHÌNH BÁN LẺ TRUYỀN THỐNG.1. Những đặc trưng nổi bật phân biệt siêu thị- Siêu thị trước hết là cửa hàng bán lẻ: Mặc dù được định nghĩa là “chợ”song đây được coi là loại “chợ” ở mức phát triển cao, được quy hoạch và tổchức kinh doanh dưới hình thức những cửa hàng bề thế, có trang thiết bị và cơsở vật chất hiện đại, văn minh, do thương nhân đầu tư và quản lý, được Nhànước cấp phép hoạt động. Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ – bán hàng hóatrực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bánlại.- Siêu thị sáng tạo và áp dụng phương thức tự phục vụ:Khi nói đến siêu thị người ta không thể không nghĩ tới “tự phục vụ”, mộtphương thức bán hàng do siêu thị sáng tạo ra, được ứng dụng trong nhiều loạicửa hàng bán lẻ khác và là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội vănminh công nghiệp hóa… ở đây cũng cần phân biệt giữa phương thức tự chọnvà tự phục vụ:+ Tự chọn: khách hàng sau khi chọn mua được hàng hoá sẽ đến chỗngười bán để trả tiền hàng, tuy nhiên trong quá trình mua vẫn có sự giúp đỡ,hướng dẫn của người bán.+ Tự phục vụ: khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào giỏ hoặcxe đẩy đem đi và thanh toán tại quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bánvắng bóng trong quá trình mua hàng.Chính thức ra đời từ những năm 1930, tự phục vụ đã trở thành công thứcchung cho ngành công nghiệp phân phối ở các nước phát triển. Tự phục vụđồng nghĩa với văn minh thương nghiệp hiện đại. Nó có nhiều ưu điểm so vớiSinh viên: Trần Ngọc Anh 8 Lớp: Marketing 46Acách bán hàng truyền thống: doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí bánhàng, đặc biệt là chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng (thường chiếm tới30% tổng chi phí kinh doanh). Tự phục vụ giúp người mua cảm thấy thoảimái khi được tự do lựa chọn, ngắm nghía, so sánh hàng hóa mà không cảmthấy bị ngăn trở từ phía người bán.Do áp dụng phương thức tự phục vụ, giá cả trong các siêu thị được niêmyết rõ ràng để người mua không phải tốn công mặc cả, tiết kiệm được thờigian và hàng hóa bày bán trong siêu thị thường là những hàng hóa tiêu dùngphổ biến.Ngoài ra, phương thức thanh toán tại các siêu thị rất thuận tiện. Hànghóa gắn mã vạch, mã số được đem ra quầy tính tiền ở cửa ra vào, dùng máyquét scanner để đọc giá, tính tiền bằng máy và tự động in hóa đơn. Hình ảnhcác quầy tính tiền tự động luôn là biểu tượng cho các cửa hàng tự phục vụ.Đây chính là tính chất “siêu” của siêu thị, đem đến cảm giác thoải mái, hàilòng, tự tin và sự thỏa mãn cao nhất cho người mua sắm…Có thể khẳng định rằng phương thức tự phục vụ là sáng tạo kỳ diệu củakinh doanh siêu thị và là cuộc đại “cách mạng” trong lĩnh vực thương mại bánlẻ mà người lãnh đạo không ai khác là kinh doanh siêu thị.- Siêu thị sáng tạo nghệ thuật trưng bày hàng hoá:Ngoài việc sáng tạo ra phương thức bán hàng tự phục vụ, đóng góp củasiêu thị cho hệ thống bán lẻ còn là nghệ thuật trưng bày hàng hoá. Các siêu thịcũng là những nhà bán lẻ đầu tiên nghĩ đến tầm quan trọng của nghệ thuậttrình bày hàng hoá và nghiên cứu cách thức vận động của người mua hàng khivào cửa hàng. Nhiều cửa hàng bán lẻ khác, dựa trên cơ sở các nghiên cứu củasiêu thị để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khách hàng sâu sắc hơn nhằmtối đa hoá hiệu quả của không gian bán hàng.Sinh viên: Trần Ngọc Anh 9 Lớp: Marketing 46A