Kyoto và Nara linh hồn của Nhật Bản – Tạp chí Kiến Trúc

Người Nhật Bản có câu nói : “ Đến Nhật Bản mà chưa đến Kyoto và Nara, thì coi như chưa đến Nhật Bản ”. Đúng thế, “ Kyoto và Nara là linh hồn của Nhật Bản ”, đó cũng là một câu nói khác đã thành châm ngôn, đã thành chân lý, mà người Nhật cũng như người quốc tế chăm sóc đến Văn hóa Nhật Bản thường nói .
Kyoto và Nara, cùng với Osaka nằm ven biển, là ba thành phố tạo thành một hình tam giác gắn bó với nhau một cách hữu cơ. Osaka tân tiến bao nhiêu, với tư cách một thành phố Cảng, thì Kyoto và Nara cổ kính và giầu truyền thống cuội nguồn bấy nhiêu. Nhưng Kyoto và Nara truyền kiếp chưa khi nào phủ nhận sự tăng trưởng và vẫn tiếp cận với đời sống văn minh một cách hài hòa. Điều đó được thấy ngay nếu bạn đi xe lửa từ Osaka đến Kyoto, nhà ga xe lửa Kyoto to lớn và đa công dụng của Kiến trúc sư Hiroshi Hara làm người ta rất quá bất ngờ và đặt câu hỏi liệu có một sự xích míc nào không giữa một nhà ga xe lửa hoành tráng như vậy với những cung đền lỗng lẫy, chùa tháp thanh thoát, tinh xảo mà mộc mạc ở đô thị này ?

Những tranh luận, thắc mắc rồi cũng lắng xuống, vì ở đây, sức mạnh của Văn hóa truyền thống Nhật Bản quá lớn, nó có khả năng chấp nhận và ngốn ngấu, đồng hóa tất cả những gì nó gặp trên đường di.

Ấn tượng sâu sắc nhất về Kyoto, đối với bất cứ ai đến đây, có lẽ là về các công trình kiến trúc cổ. Đó là cung điện Hoàng gia Kyoto (Kyoto Imperial Palace) và Ly Cung Katsura. Kyoto là cố đô của Nhật Bản từ năm 794 đến năm 1863, trong khi đó Cung điện Hoàng gia Kyoto được khởi dựng vào năm 1855. Quần thể này gợi lên rất rõ một quá khứ vàng son và một sự hướng về tự nhiên lớn của con người.

Ly Cung Katsura cũng vậy, nhưng có một vẻ gì trầm mặc hơn, hòn đá viên sỏi, cái cây, nhành lá, mặt nước được bảo vệ rất cẩn trọng – chúng đều như muốn nói lên một điều gì .
Ngày nay con người nói nhiều về Thiền ( Zen ), nhưng liệu Thiền có sống sót với đời sống phồn hoa đô hội, ăn chơi xô bồ ở những nơi ồn ào chen lấn. Thiền phải có khoảng trống, kiến trúc, đá và cát riêng của Thiền, như ở trong vườn chùa Ryoan-ji, kiến thiết xây dựng năm 1473 .

Kyoto có vô số các địa danh nổi tiếng, nhưng danh bất hư truyền nhất phải là Chùa Thanh Thủy Tự (Kiyomizu-dera) và đền Kim Các Tự (Kimkaku-ji). Chùa Thanh Thủy Tự gây ấn tượng bằng tính quần thể và hệ thống kết cấu gỗ của nó. Quần thể chùa có lịch sử lâu đời 1200 năm, có cấu trúc gỗ trùng trùng, điệp điệp chồng xếp lên nhau. Kiyomizu có nghĩa là nước trong, vì ở đây có nguồn nước sạch từ trên núi cao chảy xuống theo 3 ống máng, và người viết bài này cũng đã thành tâm uống một gáo nước thiêng. Tôi đến Kim Các Tự (Chùa Vàng) vào lúc trời đã bảng lảng chiều và nắng chiều làm cho ngôi chùa thêm vàng rực. Điều đáng nói là hình ảnh ngôi chùa in xuống nước làm cho hiệu quả thụ cảm tăng lên rất mạnh.

Nara, về niên đại, là kinh đô của Nhật Bản sớm hơn Kyoto, cũng có một bản dồ di tích lịch sử kiến trúc truyền thống lịch sử với tỷ lệ rất cao .

Tiêu biểu là các ngôi chùa, như chùa Horyu-ji, chùa Todai-ji, chùa Yakushi-ji vàToshodai-ji.

Những ngôi chùa này có đặc thù quy mô hoành tráng, tính quần thể cao, và cả vẻ thanh nhã rất và lắng đọng. Quần thể chùa Horu-ji và chùa Todai-ji đều biểu lộ rõ những đặc thù đó, đặc biệt quan trọng chùa Horyu-ji là khu công trình cấu trúc gỗ cổ nhất quốc tế. Chùa tháp có niên đại từ những năm 670 – 714 .
Ngay lúc đến Nara và Kyoto, và cả sau này nhìn lại, tôi cảm thấy ở những nơi đó, tôi là một khách lãng du hơn là một nhà nghiên cứu. Thời gian gấp gáp và qua nhanh đến nỗi những bữa trưa có khi chỉ dừng lại ở một quán ăn ven đường và ăn một bát Ramian – là một loại mỳ đặc biệt quan trọng của những nước Đông Á và Nhật Bản. Có những câu thơ ở Nước Ta mà lắp ghép vào khung cảnh Kyoto và Nara với kiến trúc và đời sống ở đây rất hợp là “ Lâu đài đường bệ màu tự tôn / Áo gấm hài nhung cánh phượng bay ”. Nhân bản và lãng mạn, đó là đặc chất của hai thành phố này .

PGS.KTS ĐẶNG THÁI HOÀNG