Thổ Nhĩ Kỳ – Wikipedia tiếng Việt

Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye [tyrkije]), tên chính thức là nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye Cumhuriyeti [tyrkije d͡ʒumhurijeti]  ( nghe)), là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây Á và một phần nằm tại Đông Nam Âu,Thổ Nhĩ Kỳ có biên giới với 8 quốc gia: Bulgaria ở phía tây bắc; Hy Lạp ở phía tây; Gruzia ở phía đông bắc; Armenia, Iran và vùng tách rời Nakhchivan của Azerbaijan ở phía đông; và Iraq cùng Syria ở phía đông nam. Địa Trung Hải ở phía nam; biển Aegea ở phía tây; và biển Đen ở phía bắc. Biển Marmara, các eo biển Bosphorus và Dardanelles phân ranh giới giữa Thrace và Anatolia, và cũng phân chia châu Âu và châu Á.[6] Vị trí nằm tại nơi giao cắt giữa châu Âu và châu Á khiến Thổ Nhĩ Kỳ có tầm quan trọng địa chiến lược đáng kể.[7]

Thổ Nhĩ Kỳ có người cư trú từ thời đại đồ đá cũ, [ 8 ] Sau khi bị Alexandros Đại đế chinh phục, khu vực bị Hy Lạp hóa, quy trình này liên tục dưới sự quản lý của Đế quốc La Mã rồi tiếp theo là Đế quốc Đông La Mã. [ 9 ] [ 10 ] Người Thổ Seljuk khởi đầu di cư đến khu vực vào thế kỷ XI, khởi đầu quy trình Thổ Nhĩ Kỳ hóa. [ 11 ] Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII, người Ottoman thống nhất Anatolia và thiết lập một đế quốc gồm có nhiều chủ quyền lãnh thổ tại Đông Nam Âu, Tây Nam Á và Bắc Phi, trở thành một cường quốc đa phần tại Âu-Á và châu Phi trong thời kỳ đầu tân tiến. Đế quốc đạt đỉnh điểm quyền lực tối cao trong thế kỷ XV-XVII. Các cải cách Tanzimat trong thế kỷ XIX nhằm mục đích hiện đại hóa Ottoman là không đủ, và thất bại trong việc ngăn ngừa đế quốc tan rã. [ 12 ] Đế quốc Ottoman tham gia Chiến tranh quốc tế thứ nhất trong Liên minh Trung tâm và sau cuối chiến bại. Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ do Mustafa Kemal Atatürk và những tập sự của ông đề xướng tại Anatolia, dẫn đến việc xây dựng nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ tân tiến vào năm 1923, với Atatürk là tổng thống tiên phong. [ 13 ]

Thổ Nhĩ Kỳ là một nước cộng hòa dân chủ, thế tục, đơn nhất, và lập hiến với một di sản văn hóa đa dạng.[14][15] Ngôn ngữ chính thức của quốc gia là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, đây là ngôn ngữ tự nhiên của xấp xỉ 85% cư dân.[16] 70–80% dân số thuộc dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ; phần còn lại gồm các dân tộc thiểu số như người Kurd.[14] Đại đa số cư dân là tín đồ Hồi giáo.[14] Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên của Liên Hợp Quốc, NATO, OECD, OSCE, OIC và G-20. Sau khi trở thành một trong các thành viên đầu tiên của Ủy hội châu Âu vào năm 1949, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một thành viên liên kết của EEC vào năm 1963, gia nhập Liên minh Thuế quan EU vào năm 1995 và bắt đầu các cuộc đàm phán về quyền thành viên đầy đủ với Liên minh châu Âu vào năm 2005.[17] Kinh tế tăng trưởng và các sáng kiến ngoại giao của Thổ Nhĩ Kỳ khiến quốc gia này được công nhận là một cường quốc khu vực.[18][19][20][21]

Tên gọi của Thổ Nhĩ Kỳ trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trong tiếng Anh, nước này được gọi là Turkey. Bằng tiếng Trung, “Tu-r-key” được phiên âm là “Tǔ ěr qí” (theo pinyin) và viết bằng chữ Hán là “土耳其” (Thổ Nhĩ Kỳ).[22]

Tiền sử của Anatolia và Đông Thrace[sửa|sửa mã nguồn]

[23]Cổng Sư tử tại Hattusa, thủ đô hà nội của Đế quốc Hittite. Lịch sử của thành phố truy nguyên đến thiên niên kỷ 6 TCN .Bán hòn đảo Anatolia là một trong những khu vực định cư vĩnh cửu cổ nhất trên quốc tế. Nhiều dân cư Anatolia cổ đại cư trú tại bán đảo, tối thiểu là từ Thời đại đồ đá mới cho đến cuộc chinh phục của Alexandros Đại đế. [ 9 ] Nhiều dân tộc bản địa nói một trong những ngôn từ Anatolia, một nhánh của Ngữ hệ Ấn – Âu. [ 24 ] Dựa trên tính cổ xưa của những ngôn từ Hittite và Luwia, 1 số ít học giả đề xuất kiến nghị Anatolia là TT giả thuyết mà từ đó những ngôn từ Ấn-Âu tỏa ra. [ 25 ] Phần thuộc châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ được gọi là Đông Thrace, khu vực này có người cư trú từ tối thiểu là bốn mươi nghìn năm trước, và được biết đến là nằm trong Thời đại đồ đá mới vào thời gian 6000 TCN khi những dân cư mở màn thực thi nông nghiệp. [ 26 ]Göbekli Tepe là khu vực có cấu trúc tôn giáo tự tạo cổ nhất được biết đến, một đền thờ có niên đại từ 10.000 TCN, [ 27 ] trong khi Çatalhöyük là một khu dân cư Thời đại đồ đá mới và đồ đồng đá rất lớn tại miền nam Anatolia, sống sót từ khoảng chừng 7500 TCN tới 5700 TCN. [ 28 ] Khu dân cư Troy khởi đầu vào thời đại đồ đá mới và liên tục đến thời đại đồ sắt. [ 29 ]Những dân cư sớm nhất của Anatolia theo ghi chép là người Hatti và người Hurria, là những dân tộc bản địa phi Ấn-Âu lần lượt cư trú tại miền trung và miền đông Anatolia, từ khoảng chừng 2300 TCN. Người Hittite Ấn-Âu đến Anatolia và dần hấp thu người Hattia và Hurria vào lúc 2000 – 1700 TCN. Đế quốc lớn tiên phong trong khu vực do người Hittite xây dựng, sống sót từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIII TCN. Người Assyria chinh phục và định cư tại nhiều nơi của miền đông nam Thổ Nhĩ Kỳ từ 1950 TCN cho đến năm 612 TCN. [ 30 ] [ 31 ] Urartu tái xuất hiện trên những câu khắc Assyria vào thế kỷ IX TCN như một đối thủ cạnh tranh phương bắc hùng mạnh của Assyria. [ 32 ]Sau khi Đế quốc Hittite sụp đổ vào thời gian 1180 TCN, một dân tộc bản địa Ấn-Âu là Phrygia giành được uy thế tại Anatolia cho đến khi vương quốc của họ bị người Cimmeria tàn phá vào thế kỷ VII TCN. [ 33 ] Bắt đầu từ 714 BC, Urartu có số phận tựa như và giải thể vào năm 590 TCN. [ 34 ] Các vương quốc thừa kế hùng mạnh nhất của Phrygia là Lydia, Caria và Lycia. [ 35 ]

Thời cổ đại và Đông La Mã[sửa|sửa mã nguồn]

Hagia Sophia tại Istanbul nguyên là một nhà thờ Cơ Đốc giáo, sau là một thánh đường Hồi giáo và hiện là một bảo tàng, công trình được người Byzantine xây dựng trong thế kỷ VI.Bắt đầu từ khoảng chừng 1200 TCN, người Hy Lạp Aeolus và Ionia định cư nhiều tại duyên hải Anatolia. Nhiều thành phố quan trọng được họ lập ra, như Miletus, Ephesus, Smyrna và Byzantium. Quốc gia tiên phong được những dân tộc bản địa lân cận gọi là Armenia là vương quốc của triều đại Orontid, gồm có những bộ phận miền đông Thổ Nhĩ Kỳ, khởi đầu từ thế kỷ VI TCN. Tại tây-bắc Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm bộ tộc quan trọng nhất tại Thrace là Odyrisia. [ 36 ]Đế quốc Achaemenes Ba Tư chinh phục Anatolia trong những thế kỷ VI và V TCN, rồi thất thủ trước Alexandros Đại đế vào năm 334 TCN, [ 37 ] sự kiện này làm ngày càng tăng tính như nhau văn hóa truyền thống và Hy Lạp hóa trong khu vực. [ 9 ] Sau khi Alexandros Đại đế từ trần vào năm 323 TCN, Anatolia bị phân loại thành một số ít vương quốc Hy Lạp hóa nhỏ, hàng loạt chúng đều trở thành bộ phận của Cộng hòa La Mã vào khoảng chừng giữa thế kỷ I TCN. [ 38 ] Quá trình Hy Lạp hóa vốn mở màn bằng cuộc chinh phục của Alexandros được tăng cường dưới sự quản lý của La Mã, và đến khoảng chừng những thế kỷ đầu CN thì ngữ tộc Anatolia và văn hóa truyền thống địa phương bị tuyệt diệt, phần nhiều bị thay thế sửa chữa bằng ngôn từ và văn hóa truyền thống Hy Lạp cổ đại. [ 10 ] [ 39 ]Năm 324, Constantine I lựa chọn Byzantium làm Hà Nội Thủ Đô mới của Đế quốc La Mã. Sau khi Theodosius I từ trần vào năm 395 và đế quốc bị phân loại vĩnh viễn giữa hai con trai của ông, thành phố trở thành thủ đô hà nội của Đế quốc Đông La Mã và có tên gọi đại chúng là Constantinopolis. Đế quốc Đông La Mã quản lý hầu hết chủ quyền lãnh thổ nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ cho đến Hậu kỳ Trung Cổ. [ 40 ]

Người Seljuk và Đế quốc Ottoman[sửa|sửa mã nguồn]

Nhà Seljuk là một nhánh của người Thổ Oghuz Kınık, những người cư trú tại ngoại vi của thế giới Hồi giáo, trong Hãn quốc Yabghu của liên minh Oguz, từ phía bắc của các biển Caspia và Aral, trong thế kỷ IX.[42] Trong thế kỷ X, người Seljuk bắt đầu di cư đến Ba Tư, nơi này trở thành trung tâm hành chính của Đế quốc Đại Seljuk.[43]

Trong nửa cuối của thế kỷ XI, người Seljuk khởi đầu xâm nhập những khu vực miền đông của Anatolia. Năm 1071, người Thổ Seljuk vượt mặt người Đông La Mã trong trận Manzikert, khởi đầu Thổ hóa khu vực, ngôn từ Thổ Nhĩ Kỳ và Hồi giáo được đưa đến Anatolia và dần truyền bá khắp khu vực và thực thi quy đổi chậm Anatolia từ khu vực đa phần Cơ Đốc giáo và Hy Lạp ngữ sang đa phần Hồi giáo và Thổ ngữ. [ 44 ]Năm 1243, quân đội Seljuk bị người Mông Cổ vượt mặt, khiến quyền lực tối cao của Đế quốc Seljuk từ từ tan rã. Trong toàn cảnh này, một trong những thân vương quốc Thổ do Osman I quản lý tiến triển thành Đế quốc Ottoman. Năm 1453, người Ottoman triển khai xong chinh phục Đế quốc Đông La Mã khi sở hữu Constantinopolis. [ 45 ]Năm 1514, Sultan Selim I ( 1512 – 1520 ) bành trướng thành công xuất sắc biên giới phía nam và phía đông của Đế quốc khi vượt mặt Shah Ismail I của triều đại Safavid trong trận Chaldiran. Năm 1517, Selim I bành trướng quyền quản lý của Ottoman đến Algérie và Ai Cập, và thiết lập hiện hữu thủy quân tại biển Đỏ. Sau đó, Ottoman và Bồ Đào Nha khởi đầu cạnh tranh đối đầu để trở thành thế lực hải dương chi phối tại Ấn Độ Dương. Sự hiện hữu của người Bồ Đào Nha tại Ấn Độ Dương được cho là một mối rình rập đe dọa so với độc quyền của Ottoman trên những tuyến mậu dịch cổ giữa Đông Á và Tây Âu. Độc quyền quan trọng này càng bị tổn hại sau khi người Bồ Đào Nha phát hiện tuyến hàng hải vòng qua châu Phi vào năm 1488, một tác động ảnh hưởng đáng kể so với kinh tế tài chính Ottoman. [ 46 ]Quyền lực và thanh thế của Ottoman đạt đỉnh trong thế kỷ XVI và XVII, đặc biệt quan trọng là trong triều đại của Suleiman I. Ottoman thường xung đột với Đế quốc La Mã Thần thánh trong bước tiến vững chãi của mình hướng đến Trung Âu qua Balkan và phần phía nam của Liên bang Ba Lan và Lietuva. [ 47 ] Trên hải dương, Hải quân Ottoman đấu tranh với vài liên minh Công giáo để trấn áp Địa Trung Hải. Tại phía đông, người Ottoman nhiều lúc có cuộc chiến tranh với Safavid Ba Tư từ thế kỷ XVI đến XVIII do tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và độc lạ tôn giáo. [ 48 ]Từ đầu thế kỷ XIX trở đi, Ottoman mở màn suy yếu, size chủ quyền lãnh thổ cùng năng lượng quân sự chiến lược và thịnh vượng dần giảm đi, khiến nhiều người Hồi giáo Balkan di cư đến phần TT của Đế quốc tại Anatolia, [ 49 ] [ 50 ] Ottoman suy yếu khiến tình cảm dân tộc bản địa chủ nghĩa nổi lên trong những dân tộc bản địa khác nhau, dẫn đến ngày càng tăng stress dân tộc bản địa mà đôi lúc bùng phát thành đấm đá bạo lực. [ 51 ]Ottoman tham gia Chiến tranh quốc tế thứ nhất bên phe Liên minh Trung tâm và sau cuối chiến bại. Trong cuộc chiến tranh, người Armenia trong Đế quốc bị trục xuất từ miền đông Anatolia đến Syria như một phần của Cuộc diệt chủng người Armenia. Theo ước tính, có 1,5 triệu người Armenia bị sát hại. [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ bác bỏ đó là một cuộc diệt chủng và công bố rằng người Armenia chỉ bị tái định cư từ khu vực chiến sự phía đông. [ 56 ] Sau Hiệp định đình chiến Mudros vào ngày 30 tháng 10 năm 1918, Đồng Minh tìm cách phân loại Ottoman trải qua Hòa ước Sèvres 1923. [ 45 ]

Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ[sửa|sửa mã nguồn]

Trước việc Đồng Minh chiếm đóng Constantinopolis và Smyrna, Phong trào Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ được triển khai xây dựng. [ 57 ] Dưới quyền chỉ huy của Mustafa Kemal, Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ được triển khai với mục tiêu hủy bỏ những pháp luật của Hòa ước Sèvres. [ 58 ]Đến ngày 18 tháng 9 năm 1922, những quân đội chiếm đóng bị trục xuất, và chính thể Thổ Nhĩ Kỳ đặt tại Ankara khởi đầu chính thức hóa chuyển giao tư pháp từ Ottoman sang mạng lưới hệ thống chính trị Cộng hòa mới. Ngày 1 tháng 11, nghị viện mới hình thành chính thức bãi bỏ Đế quốc. Hiệp ước Lausanne ngày 24 tháng 7 năm 1923 dẫn đến việc quốc tế công nhận chủ quyền lãnh thổ của ” Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ” mới hình thành với vị thế vương quốc liên tục của Đế quốc Ottoman, và nước cộng hòa được công bố chính thức vào ngày 29 tháng 10 năm 1923 tại Thành Phố Hà Nội mới Ankara. [ 59 ] Hiệp định Lausanne lao lý trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, do đó 1,1 triệu người Hy Lạp rời Thổ Nhĩ Kỳ trong khi 380 nghìn người Hồi giáo chuyển từ Hy Lạp sang Thổ Nhĩ Kỳ. [ 60 ] Mustafa Kemal trở thành tổng thống tiên phong của nước cộng hòa và sau đó triển khai nhiều cải cách cơ bản với tiềm năng quy đổi vương quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ cũ thành một nước cộng hòa thế tục mới. [ 61 ]Thổ Nhĩ Kỳ duy trì trung lập trong hầu hết Chiến tranh quốc tế thứ hai, tuy nhiên tham gia trong tiến trình cuối của cuộc chiến tranh bên phe Đồng Minh vào ngày 23 tháng 2 năm 1945. Ngày 26 tháng 6 năm 1945, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một thành viên hiến chương của Liên Hiệp Quốc. [ 62 ] Khó khăn của Hy Lạp sau cuộc chiến tranh đàn áp làm mưa làm gió cộng sản, cùng với những nhu yếu của Liên Xô về địa thế căn cứ quân sự chiến lược tại những eo biển Thổ Nhĩ Kỳ, thực thi Hoa Kỳ công bố Học thuyết Truman vào năm 1947. Học thuyết đề ra những mục tiêu của Hoa Kỳ để bảo vệ bảo mật an ninh cho Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, hiệu quả là tương hỗ quân sự chiến lược và kinh tế tài chính quy mô lớn của Hoa Kỳ. Hai vương quốc tham gia Kế hoạch Marshall và OEEC về tái thiết những nền kinh tế tài chính châu Âu vào năm 1948, [ 63 ] và sau đó trở thành những thành viên sáng lập của OECD vào năm 1961. [ 64 ]Sau khi tham gia cùng lực lượng Liên Hiệp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập NATO vào năm 1952, trở thành một tường thành chống lại sự bành trướng của Liên Xô đến Địa Trung Hải. Sau một thập niên đấm đá bạo lực giữa những hội đồng tại Síp, và thay máu chính quyền tại Síp vào ngày 15 tháng 7 năm 1974, trong đó phế truất Tổng thống Makarios và đưa nhân vật ủng hộ liên minh với Hy Lạp là Nikos Sampson lên cầm quyền, Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng Síp vào ngày 20 tháng 7 năm 1974. [ 65 ] Chín năm sau đó, Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ Bắc Síp được xây dựng, Thổ Nhĩ Kỳ là vương quốc duy nhất công nhận chính thể này. [ 66 ]Giai đoạn độc đảng kết thúc vào năm 1945, sau đó là một quy đổi náo động sang dân chủ đa đảng trong vài thập niên sau đó, bị gián đoạn do thay máu chính quyền quân sự chiến lược vào năm 1960, 1971, và 1980, cũng như một bị vong lục quân sự vào năm 1997. [ 67 ] [ 68 ] Năm 1984, một nhóm ly khai người Kurd mang tên PKK mở màn chiến dịch làm mưa làm gió chống chính phủ nước nhà Thổ Nhĩ Kỳ. [ 69 ] Kể từ khi tự do hóa kinh tế tài chính trong thập niên 1980, Thổ Nhĩ Kỳ đạt được tăng trưởng kinh tế tài chính mạnh hơn và không thay đổi chính trị lớn hơn. [ 70 ] Trong tháng 7 năm năm nay, phát sinh một nỗ lực thay máu chính quyền bất thành nhằm mục đích phế truất cơ quan chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. [ 71 ] Sau đó, cơ quan chính phủ triển khai thanh trừng hàng loạt. [ 72 ]
Trước đây, Thổ Nhĩ Kỳ là một vương quốc cộng hòa đại nghị. Nhưng sau một cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý năm 2017 về việc sửa đổi hiến pháp nhằm mục đích lan rộng ra quyền lực tối cao cho Tổng thống đã dành thắng lợi áp đảo. Từ đó, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành vương quốc Tổng thống chế. Từ khi hình thành vào năm 1923, nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ tăng trưởng một truyền thống cuội nguồn can đảm và mạnh mẽ về chủ nghĩa thế tục. Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát và điều chỉnh khuôn khổ pháp lý của vương quốc. Hiến pháp chế định những nguyên tắc chính của cơ quan chính phủ và pháp luật Thổ Nhĩ Kỳ là một vương quốc tập trung chuyên sâu hóa thống nhất. Tổng thống là nguyên thủ vương quốc. Tổng thống hiện được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm trải qua bầu cử trực tiếp .Bộ máy tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp, và Tòa án Hiến pháp có nghĩa vụ và trách nhiệm quyết định hành động sự tương thích của những luật và sắc lệnh với hiến pháp. Hội đồng Nhà nước là tòa án nhân dân sau cuối cho những vụ án hành chính, và Tòa án Phúc thẩm tối cao cho những vụ án khác. [ 73 ]Phổ thông đầu phiếu cho cả hai giới được vận dụng trên toàn Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1933, và mọi công dân Thổ Nhĩ Kỳ sang tuổi 18 đều có quyền bỏ phiếu. 500 thành viên QH được bầu cử cho một nhiệm kỳ 4 năm từ một mạng lưới hệ thống đại diện thay mặt tỷ suất list đảng từ 85 khu vực bầu cử. Tòa án Hiến pháp cho thể tước đoạt nguồn kinh tế tài chính công cộng của những chính đảng nếu họ bị cho là chống thế tục hoặc ly khai, hoặc cấm chỉ sống sót trọn vẹn. [ 74 ] [ 75 ] Ngưỡng bầu cử là 10 % số phiếu. [ 76 ]Những người ủng hộ những cải cách của Atatürk và những người theo chủ nghĩa Hồi giáo đại diện thay mặt cho hai cực về vai trò của tôn giáo trong hoạt động và sinh hoạt công cộng. [ 77 ] Quan điểm của phe thân Atatürk về đại thể là tích hợp một loại chính sách dân chủ với một hiến pháp tách khỏi tôn giáo và phương pháp hoạt động và sinh hoạt thế tục Tây phương hóa, trong khi ủng hộ can thiệp của nhà nước trong kinh tế tài chính, giáo dục, và những dịch vụ công cộng khác. [ 77 ] Từ thập niên 1980, ngày càng tăng bất bình đẳng thu nhập và phân biệt đẳng cấp và sang trọng khiến chủ nghĩa dân túy Hồi giáo nổi lên, đây là một trào lưu mà theo triết lý ủng hộ nghĩa vụ và trách nhiệm với nhà cầm quyền, đoàn kết hội đồng và công minh xã hội. [ 77 ]Nhân quyền tại Thổ Nhĩ Kỳ là đề tài gặp một số ít tranh luận và chỉ trích quốc tế. Từ năm 1998 đến 2008, Tòa án Nhân quyền châu Âu đưa ra trên 1.600 phán quyết chống Thổ Nhĩ Kỳ do những vi phạm nhân quyền. Các yếu tố khác như quyền hạn của người Kurd, nữ quyền và tự do báo chí truyền thông cũng lôi cuốn tranh luận. Hồ sơ nhân quyền của Thổ Nhĩ Kỳ liên tục là một chướng ngại vật đáng kể so với quyền thành viên EU trong tương lai của vương quốc này. [ 78 ]
Thổ Nhĩ Kỳ có một mạng lưới hệ thống tư pháp nhất thể hóa trọn vẹn với mạng lưới hệ thống của châu Âu lục địa. [ 79 ] Thổ Nhĩ Kỳ chấp thuận đồng ý nguyên tắc phân loại quyền lực tối cao. Phù hợp với nguyên tắc này, quyền lực tối cao tư pháp do những TANDTC độc lập thi hành nhân danh vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Sự độc lập và tổ chức triển khai của những TANDTC, sự bảo vệ so với những nhiệm kỳ thẩm phán và công tố viên công cộng, sự chuyên nghiệp của những thẩm phán và công tố viên, sự giám sát của những thẩm phán và công tố viên công cộng, những tòa án nhân dân quân sự chiến lược và tổ chức triển khai của chúng, và quyền lực tối cao và bổn phận của những tòa án nhân dân cấp cao được Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ pháp luật. [ 80 ]Theo Điều 142 của hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ, tổ chức triển khai, bổn phận và quyền hạn của những tòa án nhân dân, công dụng và thủ tục xét xử được pháp luật theo luật. Phù hợp với lao lý này của hiến pháp và những luật tương quan, mạng lưới hệ thống TANDTC tại Thổ Nhĩ Kỳ hoàn toàn có thể được phân thành ba hạng ; đó là TANDTC tư pháp, TANDTC hành chính và TANDTC quân sự chiến lược. Mỗi thể loại gồm có những TANDTC cấp xét xử sơ thẩm và TANDTC phúc thẩm. Ngoài ra, Tòa án Tranh chấp Tư pháp phán quyết về những vụ án không hề phân loại thuận tiện. [ 80 ]Thực thi pháp lý tại Thổ Nhĩ Kỳ là nghĩa vụ và trách nhiệm của một vài cơ quan ( như Tổng cục An ninh và Tổng cục Hiến binh ), đều hành vi theo lệnh của Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ hoặc phần nhiều là từ Bộ trưởng Nội vụ. Theo những số liệu do Bộ Tư pháp công bố, có 100.000 người bị giam trong những nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 11 năm 2008. [ 81 ]

Quan hệ đối ngoại[sửa|sửa mã nguồn]

Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc ( 1945 ), [ 82 ] OECD ( 1961 ), [ 83 ] OIC ( 1969 ), [ 84 ] OSCE ( 1973 ), [ 85 ] ECO ( 1985 ), [ 86 ] BSEC ( 1992 ), [ 87 ] D-8 ( 1997 ) [ 88 ] và G-20 ( 1999 ). [ 89 ] Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vào những năm 1951 – 1952, 1954 – 1955, 1961 và 2009 – 2010. [ 90 ]Phù hợp với truyền thống lịch sử xu thế phương Tây của mình, quan hệ với châu Âu luôn là một bộ phận TT trong chủ trương đối ngoại của Thổ Nhĩ Kỳ. Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một trong những thành viên tiên phong của Ủy hội châu Âu vào năm 1949, thỉnh cầu về quyền thành viên link của EEC vào năm 1959 và trở thành một thành viên link vào năm 1963. Sau nhiều thập niên đàm phán chính trị, Thổ Nhĩ Kỳ thỉnh cầu về quyền thành viên vừa đủ của EEC vào năm 1987, trở thành một thành viên link của Liên minh Tây Âu vào năm 1992, gia nhập Liên minh Thuế quan EU vào năm 1995 và tham gia đàm phán gia nhập chính thức với EU từ năm 2005. [ 17 ] Hiện nay, quyền thành viên EU được cho là một chủ trương vương quốc và một tiềm năng kế hoạch của Thổ Nhĩ Kỳ. [ 91 ] Sự ủng hộ của Thổ Nhĩ Kỳ cho Bắc Síp làm phức tạp quan hệ của Thổ Nhĩ Kỳ với EU và vẫn là một trở ngại lớn ngăn nỗ lực gia nhập EU của vương quốc này. [ 92 ]Phương diện mang tính quyết định hành động khác trong chủ trương đối ngoại của Thổ Nhĩ Kỳ là liên minh kế hoạch của vương quốc với Hoa Kỳ. Mối rình rập đe dọa chung từ Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh khiến Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một thành viên của NATO vào năm 1952, bảo vệ quan hệ song phương mật thiết với Washington. Sau đó, Thổ Nhĩ Kỳ nhận được tương hỗ về chính trị, kinh tế tài chính và ngoại giao của Hoa Kỳ, gồm có trong những yếu tố chủ chốt như Thổ Nhĩ Kỳ ứng cử gia nhập EU. [ 93 ] Trong tình hình hậu Chiến tranh Lạnh, tính trọng yếu địa kế hoạch của Thổ Nhĩ Kỳ chuyển hướng đến những khu vực gần là Trung Đông, Kavkaz và Balkan. [ 94 ]Thổ Nhĩ Kỳ san sẻ di sản văn hóa truyền thống và ngôn từ chung với những vương quốc Turk độc lập từ Liên Xô vào năm 1991, điều này được cho phép Thổ Nhĩ Kỳ khoách trương quan hệ kinh tế tài chính và chính trị sâu vào Trung Á, [ 95 ] Đường ống Baku-Tbilisi-Ceyhan tạo thành bộ phận trong kế hoạch chủ trương đối ngoại của Thổ Nhĩ Kỳ để trở thành một nơi chuyển tiếp nguồn năng lượng đến phương Tây. Tuy nhiên, biên giới Thổ Nhĩ Kỳ-Armenia bị đóng cửa do Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ Azerbaijan trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh và nay vẫn bị ngừng hoạt động. [ 96 ]Dưới cơ quan chính phủ của Đảng AK, ảnh hưởng tác động của Thổ Nhĩ Kỳ tăng trưởng tại những chủ quyền lãnh thổ nguyên thuộc Ottoman tại Trung Đông và Balkan, dựa theo thuyết ” chiều sâu kế hoạch “, còn được gọi là chủ nghĩa Tân Ottoman. [ 97 ] [ 98 ]Thổ Nhĩ Kỳ duy trì lực lượng trong những thiên chức quốc tế dưới quyền Liên Hiệp Quốc và NATO kể từ năm 1950, gồm có những thiên chức duy trì độc lập tại Somalia và Nam Tư cũ, và hỗ trợ lực lượng liên quân trong Chiến tranh Vùng Vịnh. Thổ Nhĩ Kỳ duy trì 36.000 binh sĩ tại Bắc Síp, tuy nhiên sự hiện hữu của họ gây tranh luận, [ 99 ] và tương hỗ bảo mật an ninh cho Kurdistan thuộc Iraq. [ 100 ] Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành binh sĩ tại Afghanistan từ năm 2001. [ 101 ]
[102]Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập NATO vào năm 1952 .Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ gồm Lục quân, Hải quân và Không quân. Hiến binh và Tuần duyên hoạt động giải trí như những bộ phận của Bộ Nội vụ trong thời bình, tuy nhiên sẽ lần lượt nhờ vào Lục quân và Hải quân trong thời chiến. [ 103 ]Tổng tham mưu trưởng do Tổng thống chỉ định. Hội đồng Bộ trưởng chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trước Quốc hội trong những yếu tố bảo mật an ninh vương quốc và sự sẵn sàng chuẩn bị vừa đủ của lực lượng vũ trang để bảo vệ vương quốc. Tuy nhiên, chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền tuyên chiến và tiến hành binh sĩ ra quốc tế hay được cho phép quân đội quốc tế đồn trú tại Thổ Nhĩ Kỳ. [ 103 ]Thổ Nhĩ Kỳ có lực lượng vũ trang thường trực lớn thứ nhì trong NATO, sau Quân đội Hoa Kỳ, với 495.000 binh sĩ được tiến hành theo ước tính của NATO vào năm 2011. [ 104 ] Thổ Nhĩ Kỳ là một trong năm vương quốc thành viên NATO là bộ phận của chủ trương san sẻ hạt nhân của liên minh, cùng với Bỉ, Đức, Ý và Hà Lan. [ 105 ] Tổng cộng có 90 bom hạt nhân B61 được đặt trong địa thế căn cứ không quân Incirlik, 40 trong số đó được phân cho Không quân Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng trong trường hợp một xung đột hạt nhân, tuy nhiên việc sử dụng chúng cần phải được NATO phê chuẩn. [ 106 ]Mọi nam công dân Thổ Nhĩ Kỳ đủ điều kiện kèm theo được nhu yếu Giao hàng quân đội trong một quy trình tiến độ lê dài từ ba tuần đến một năm, tùy theo giáo dục và việc làm. [ 107 ] Thổ Nhĩ Kỳ không công nhận cự tuyệt binh dịch lương tâm và không phân phối một thay thế sửa chữa dân sự cho nghĩa vụ và trách nhiệm quân sự chiến lược. [ 108 ]
Bản đồ địa hình Thổ Nhĩ KỳThổ Nhĩ Kỳ là một vương quốc liên lục địa [ 109 ] Á-Âu. Phần chủ quyền lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Á chiếm 97 % diện tích quy hoạnh toàn nước, tách khỏi phần chủ quyền lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu qua eo biển Bosphorus, biển Marmara và eo biển Dardanelles. Phần chủ quyền lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu chiếm 3 % diện tích quy hoạnh toàn nước. [ 110 ] Lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ dài trên 1.600 km và rộng trên 800 km, có hình dạng gần giống hình chữ nhật. [ 111 ] Thổ Nhĩ Kỳ nằm giữa những vĩ độ 35 ° và 43 ° Bắc, và những kinh độ 25 ° và 45 ° Đông. Diện tích của Thổ Nhĩ Kỳ, gồm cả mặt hồ, là 783.562 km² [ 112 ], trong đó 755.688 km² nằm tại Tây Nam Á và 23.764 km² nằm tại châu Âu. [ 111 ] Thổ Nhĩ Kỳ là vương quốc lớn thứ 37 quốc tế xét theo diện tích quy hoạnh. Quốc gia này có biển bao quanh tại ba mặt : biển Aegea tại phía tây, biển Đen tại phía bắc và Địa Trung Hải tại phía nam. Thổ Nhĩ Kỳ có biển Marmara tại phía tây-bắc. [ 113 ]Phần thuộc châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ là Đông Thrace, có biên giới với Hy Lạp và Bulgaria. Phần thuộc châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ là Anatolia, gồm một cao nguyên TW có độ to lớn cùng những đồng bằng duyên hải hẹp, nằm giữa những dãy núi Köroğlu và Pontic tại phía bắc và Taurus tại phía nam. Miền đông của Thổ Nhĩ Kỳ có cảnh sắc đồi núi hơn và là nguồn của những sông như Euphrates, Tigris và Aras, và có điểm trên cao nhất Thổ Nhĩ Kỳ là Núi Ararat với cao độ 5.137 m, [ 114 ] và hồ lớn nhất toàn nước là hồ Van. [ 115 ]Thổ Nhĩ Kỳ được phân thành bảy khu vực tìm hiểu nhân khẩu : Marmara, Aegea, Biển Đen, Trung Anatolia, Đông Anatolia, Đông Nam Anatolia và Địa Trung Hải. Địa hình không nhẵn tại phía bắc Anatolia dọc theo biển Đen giống như một dải dài và hẹp. Như khuynh hướng chung, cao nguyên Anatolia nội lục ngày càng không nhẵn khi đi về phía đông. [ 113 ]Cảnh quan phong phú của Thổ Nhĩ Kỳ là tác dụng của những hoạt động giải trí địa chất phức tạp, tạo thành hình khu vực trong hàng nghìn năm và vẫn biểu lộ trải qua những trận động đất khá tiếp tục và đôi lúc là phun trào núi lửa. Các eo biển Bosphorus và Dardanelles Open do đường đứt gãy chạy qua Thổ Nhĩ Kỳ, đường đứt gãy này là nguyên do dẫn đến hình thành biển Đen. Tồn tại một đường đứt gãy động đất chạy qua phía bắc của vương quốc từ tây sang đông. [ 35 ]

Đa dạng sinh học[sửa|sửa mã nguồn]

Tu viện Sümela trên dãy núi Pontic. Những ngọn núi này tạo thành một khu vực sinh thái với các loại rừng mưa ôn đới đa dạng.Hệ sinh thái đặc biệt quan trọng và sự phong phú về thiên nhiên và môi trường sống của Thổ Nhĩ Kỳ sản sinh phong phú đáng kể về loài. [ 116 ] Anatolia là quê nhà của nhiều loài thực vật đã được canh tác để làm thực phẩm từ khi Open nông nghiệp, và những tổ tiên hoang dã của nhiều thực vật mà hiện cung ứng lương thực cho trái đất vẫn mọc tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tính phong phú của động vật hoang dã tại Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí còn còn lớn hơn của thực vật, số lượng loài động vật hoang dã trên toàn châu Âu là khoảng chừng 60.000 ; tại Thổ Nhĩ Kỳ có trên 8.000. [ 117 ]

Rừng hạt trần và rụng lá Bắc Anatolia là một hệ sinh thái bao trùm hầu hết Dãy núi Pontic tại miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi rừng hỗn hợp Kavkaz trải rộng khắp cực đông của dãy núi. Khu vực này là nơi sống của các loại động vật hoang dã Âu-Á như cắt hỏa mai, đại bàng vàng, đại bàng đầu nâu, Clanga pomarina, gà gô Kavkaz, bạch yến trán đỏ, và Tichodroma muraria.[118] Dải duyên hải hẹp giữa dãy núi Pontic và biển Đen có rừng rụng lá Euxine-Colchic, gồm một số trong số ít khu rừng mưa ôn đới của thế giới.[119]

Thổ Nhĩ Kỳ có 40 khu vui chơi giải trí công viên vương quốc, 189 khu vui chơi giải trí công viên tự nhiên, 31 khu vực bảo tồn tự nhiên, 80 khu vực bảo tồn loài hoang dã và 109 di tích lịch sử tự nhiên như Công viên vương quốc lịch sử vẻ vang Gallipoli, Công viên vương quốc núi Nemrut, Công viên vương quốc Troy cổ đại, Công viên tự nhiên Ölüdeniz và Công viên tự nhiên Polonezköy. [ 120 ]Ankara nổi tiếng với mèo Angora, thỏ Angora và dê Angora. Giống mèo vương quốc khác của Thổ Nhĩ Kỳ là mèo Van. Các giống chó vương quốc là chó chăn cừu Anatolia, Kangal, Malaklı và Akbaş. [ 121 ]
[122]Biểu đồ khí hậu của Thổ Nhĩ KỳCác khu vực duyên hải của Thổ Nhĩ Kỳ giáp với biển Aegea và Địa Trung Hải có khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa, với mùa hè nóng khô và mùa đông mát ẩm. [ 122 ] Các khu vực duyên hải giáp với biển Đen có khí hậu đại dương ôn hòa với mùa hè ấm ẩm và mùa đông lạnh ẩm. [ 122 ] Duyên hải biển Đen của Thổ Nhĩ Kỳ nhận lượng giáng thủy lớn nhất và là khu vực duy nhất trong nước nhận được lượng giáng thủy cao suốt năm. [ 122 ] Phần phía đông của khu vực duyên hải này nhận được lượng giáng thủy hàng năm là 2.200 milimét ( 87 in ), cao nhất toàn nước. [ 122 ]Các khu vực duyên hải giáp với biển Marmara có khí hậu chuyển tiếp giữa khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa và khí hậu đại dương ôn hòa, với mùa hè từ ấm đến nóng và tương đối khô cùng mùa mưa từ mát đến lạnh và ẩm. [ 122 ] Tuyết rơi tại những khu vực duyên hải của biển Marmara và biển Đen phần đông toàn bộ mùa đông, tuy nhiên thường tan trong một vài ngày. [ 122 ] Tuy nhiên, tuyết hiếm khi rơi tại những khu vực duyên hải giáp với biển Aegea và rất hiếm tại những khu vực duyên hải giáp với Địa Trung Hải. [ 122 ]Các ngọn núi gần bờ biển ngăn những tác động ảnh hưởng Địa Trung Hải lan rộng ra đến nội lục, khiến miền trung cao nguyên Anatolia có khí hậu lục địa với những mùa tương phản mạnh. [ 122 ] Mùa đông tại phần phía đông của cao nguyên đặc biệt quan trọng khắc nghiệt. [ 122 ] Nhiệt độ − 30 đến − 40 °C ( − 22 đến − 40 °F ) hoàn toàn có thể Open tại miền đông Anatolia. [ 122 ] Tại phía tây, nhiệt độ trung bình mùa đông dưới 1 °C ( 34 °F ). [ 122 ] Mùa hè nóng và khô, với nhiệt độ thường trên 30 °C ( 86 °F ) vào ban ngày. [ 122 ] Lượng giáng thủy trung bình năm là khoảng chừng 400 mm, đổi khác theo độ cao. Các khu vực khô nhất là đồng bằng Konya và đồng bằng Malatya, tại đó lượng mưa hàng năm thường dưới 300 mm ( 12 in ). Tháng 5 thường là tháng mưa nhiều nhất, còn tháng 7 và tháng 8 là những tháng khô nhất. [ 122 ]

Khu vực hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Thổ Nhĩ Kỳ được chia thành 81 đơn vị hành chính cấp tỉnh (il). Mỗi tỉnh lại được chia thành các đơn vị hành chính cấp huyện (ilçe). Tỉnh thường được đặt cùng tên với thành phố thủ phủ của tỉnh đó. Một số tỉnh được công nhận là thành phố tự trị (büyükşehir belediyeleri) như Istanbul, Ankara, İzmir, Bursa, Konya, Adana.

Thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ là Ankara, nhưng Hà Nội Thủ Đô lịch sử vẻ vang là İstanbul vẫn là một TT văn hoá, kinh tế tài chính và kinh tế tài chính quan trọng của quốc gia. Các thành phố quan trọng khác gồm İzmir, Bursa, Adana, Trabzon, Malatya, Gaziantep, Erzurum, Kayseri, Kocaeli, Konya, Mersin, Eskişehir, Diyarbakır, Antalya và Samsun. Ước tính 68 % dân số Thổ Nhĩ Kỳ sống tại những vùng thành thị. [ 123 ]
[124]Quang cảnh khu vực kinh doanh thương mại Levent tại Istanbul, thành phố lớn nhất và TT kinh tế tài chính số 1 toàn nước .Thổ Nhĩ Kỳ có GDP PPP lớn thứ 13 trên quốc tế ( năm nay ) [ 125 ] và GDP danh nghĩa lớn thứ 18 quốc tế ( năm nay ). [ 126 ] Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những thành viên sáng lập của OECD và G-20. [ 83 ] [ 89 ]Liên minh thuế quan EU-Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1995 dẫn đến tự do hóa sâu rộng về những mức thuế, và tạo thành một trong những trụ cột quan trọng nhất trong chủ trương ngoại thương của Thổ Nhĩ Kỳ. [ 127 ] Kim ngạch xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đạt $ 143,5 tỷ vào năm 2011 và đạt USD 163 tỷ vào năm 2012 ( những đối tác chiến lược xuất khẩu chính vào năm 2012 : Đức 8,6 %, Iraq 7,1 %, Iran 6,5 %, Anh Quốc 5,7 %, CTVQARTN 5,4 % ). Nhập khẩu vào năm 2012 là USD 229 tỷ ( những đối tác chiến lược nhập khẩu chính vào năm 2012 : Nga 11,3 %, Đức 9 %, Trung Quốc 9 %, Hoa Kỳ 6 %, Ý 5,6 % ). [ 14 ]Thổ Nhĩ Kỳ có một ngành công nghiệp xe hơi lớn, sản xuất trên một triệu xe xe hơi vào năm 2012, được xếp hạng là nhà phân phối lớn thứ 16 trên quốc tế. [ 128 ] Xuất khẩu đóng tàu của Thổ Nhĩ Kỳ trị giá US $ 1,2 tỷ vào năm 2011, [ 129 ] những thị trường xuất khẩu chính là Malta, Quần đảo Marshall, Panama và Hoa Kỳ. Các xưởng đóng tàu của Thổ Nhĩ Kỳ có 15 ụ nổi trong những kích cỡ khác nhau và một ụ cạn. [ 129 ] Tuzla, Yalova, và İzmit tăng trưởng thành những TT đóng tàu năng động. [ 130 ]Các nghành nghề dịch vụ chủ chốt khác của kinh tế tài chính Thổ Nhĩ Kỳ là ngân hàng nhà nước, thiết kế xây dựng, thiết bị gia dụng, thiết bị điện tử, những loại sản phẩm lọc hóa dầu, thực phẩm, khai mỏ, gang thép, và sản xuất máy. Năm 2010, nghành nông nghiệp góp phần 9 % vào GDP, trong khi nghành công nghiệp góp phần 26 % và nghành nghề dịch vụ dịch vụ góp phần 65 %. [ 14 ] Tuy nhiên, một phần tư việc làm thuộc nghành nghề dịch vụ nông nghiệp. [ 131 ] Tỷ lệ việc làm thuộc phái đẹp tại Thổ Nhĩ Kỳ là 30 % vào năm 2012, [ 132 ] mức thấp nhất trong OECD. [ 133 ]Đầu tư trực tiếp quốc tế ( FDI ) đạt $ 8,3 tỷ vào năm 2012. [ 134 ] Năm 2012, Fitch Group nâng hạng mức tin tưởng góp vốn đầu tư của Thổ Nhĩ Kỳ sau 18 năm ; [ 135 ] tiếp đến là Moody’s nâng hạng vào tháng 5 năm 2013. [ 136 ] [ 137 ]Du lịch Thổ Nhĩ Kỳ tăng trưởng nhanh gọn trong hai thập niên trở lại đây, và tạo thành một bộ phận quan trọng của kinh tế tài chính. Năm 2013, 37,8 triệu hành khách ngoại bang đến Thổ Nhĩ Kỳ, biến vương quốc này thành khu vực du lịch quốc tế phổ cập thứ sáu trên quốc tế. [ 138 ] Năm 2012, 15 % lượng hành khách đến từ Đức, 11 % đến từ Nga, 8 % đến từ Anh Quốc, 5 % đến từ Bulgaria. [ 139 ]Đầu thế kỷ XXI, lạm phát kinh tế cao kinh niên được đưa vào trấn áp ; điều này dẫn đến phát hành đơn vị chức năng tiền tệ mới là lira mới Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2005, để củng cố thành tựu của cải cách kinh tế tài chính và xóa những vết tích của một nền kinh tế tài chính không ổn định. [ 140 ] Năm 2009, lira mới Thổ Nhĩ Kỳ được đổi tên lại thành lira Thổ Nhĩ Kỳ, với việc phát hành giấy bạc và đồng xu mới. Như một hiệu quả những cải cách kinh tế tài chính tiếp nối, lạm phát kinh tế giảm xuống 8 % vào năm 2005, và tỷ suất thất nghiệp là 10 %. [ 141 ]
Trong sáu thập niên đầu của nền cộng hòa, từ 1923 đến 1983, Thổ Nhĩ Kỳ về đại thể tuân theo một cách tiếp cận gần như TW tập quyền với chính phủ nước nhà lập kế hoạch khắt khe về ngân sách và những hạn chế do cơ quan chính phủ áp đặt về ngoại thương, dòng ngoại tệ, góp vốn đầu tư trực tiếp quốc tế và khu vực tư nhân tham gia vào những nghành nhất định. Tuy nhiên, đến năm 1983, Thủ tướng Turgut Özal khởi xướng một loạt cải cách nhằm mục đích quy đổi kinh tế tài chính vương quốc từ một mạng lưới hệ thống tập quyền và cách ly sang quy mô tư nhân nhiều hơn, dựa trên thị trường. [ 70 ]

Các cải cách kết hợp với lượng vốn vay nước ngoài chưa từng có thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng; song sự tăng trưởng này gián đoạn do các suy thoái và khủng hoảng tài chính vào năm 1994, 1999,[142] và 2001;[143] kết quả là tăng trưởng GDP trung bình 4% mỗi năm từ 1981 đến 2003.[144] Thiếu các cải cách tài chính bổ sung, kết hợp với thiếu hụt tài chính lĩnh vực công lớn và gia tăng cùng tham nhũng phổ biến, dẫn đến lạm phát cao, một lĩnh vực ngân hàng yếu kém và gia tăng bất ổn kinh tế vĩ mô.[145] Kể từ khủng hoảng kinh tế năm 2001 và các cải cách do Bộ trưởng Tài chính đương thời Kemal Derviş khởi xướng, lạm phát giảm xuống một con số, niềm tin của các nhà đầu tư và đầu tư nước ngoài tăng mạnh, và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.[141]

Thổ Nhĩ Kỳ từng bước Open thị trường của mình trải qua những cải cách kinh tế tài chính bằng cách giảm trấn áp của chính phủ nước nhà trong ngoại thương và góp vốn đầu tư và tư nhân hóa những ngành thuộc chiếm hữu công, và tự do hóa nhiều nghành nghề dịch vụ để tư nhân và quốc tế tham gia liên tục nằm trong tranh luận chính trị. [ 146 ] Tỷ lệ nợ công so với GDP đạt đỉnh là 75,9 % trong suy thoái và khủng hoảng vào năm 2001, giảm xuống còn 26,9 % vào năm 2013. [ 147 ]Tăng trưởng GDP thực từ 2002 đến 2007 trung bình đạt 6,8 % mỗi năm, [ 148 ] biến Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một trong những nền kinh tế tài chính tăng trưởng nhanh nhất trên quốc tế trong tiến trình đó. Tuy nhiên, tăng trưởng giảm còn 1 % vào năm 2008, và đến năm 2009 thì kinh tế tài chính Thổ Nhĩ Kỳ chịu tác động ảnh hưởng của khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính toàn thế giới, với GDP suy giảm 5 %. Kinh tế được ước tính lại tăng trưởng 8 % vào năm 2010. [ 14 ] Theo tài liệu của Eurostat, GDP / người của Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát và điều chỉnh theo tiêu chuẩn nhu cầu mua sắm đạt 52 % trung bình EU vào năm 2011. [ 149 ]

Cơ sở hạ tầng[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 2013, Thổ Nhĩ Kỳ có 98 cảng hàng không quốc tế, [ 150 ] trong đó có 22 cảng hàng không quốc tế quốc tế. [ 151 ] Tính đến năm năm trước, trường bay Istanbul Atatürk là trường bay sinh động thứ 13 trên quốc tế, ship hàng trên 31 triệu hành khách từ tháng 1 đến tháng 7 năm năm trước. [ 152 ] Turkish Airlines là hãng hàng không vương quốc của Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1933, được Skytrax chọn là hãng hàng không tốt nhất châu Âu trong bốn năm liên tục 2011, 2012, 2013 và năm trước. [ 153 ] [ 154 ]Năm năm trước, mạng lưới hệ thống đường đi bộ của Thổ Nhĩ Kỳ dài 65.623 kilômét ( 40.776 mi ). [ 155 ] Tổng chiều dài mạng lưới hệ thống đường tàu là 10.991 km vào năm 2008, gồm có 2.133 km đường sắt điện khí hóa và 457 km đường tàu cao tốc. [ 156 ] [ 157 ]Năm 2008, Thổ Nhĩ Kỳ có 7.555 kilômét ( 4.694 mi ) đường ống dẫn khí đốt tự nhiên và 3.636 kilômét ( 2.259 mi ) đường ống dầu qua chủ quyền lãnh thổ. [ 156 ] Đường ống Baku-Tbilisi-Ceyhan là đường ống dầu dài thứ hai trên quốc tế. [ 158 ] Dòng chảy Xanh Lam dẫn khí đốt tự nhiên từ Nga đến Thổ Nhĩ Kỳ, hiệu suất của đường ống được cho phép Thỏ Nhĩ Kỳ bán lại khí đốt của Nga sang châu Âu. [ 159 ]Năm 2013, mức tiêu thụ nguồn năng lượng của Thổ Nhĩ Kỳ là 240 nghìn tỉ kwh. [ 160 ] Do Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu 7 % nguồn nguồn năng lượng vào năm 2013, cơ quan chính phủ quyết định hành động góp vốn đầu tư cho nguồn năng lượng nguyên tử để giảm lượng nhập khẩu. [ 160 ] Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng trực tiếp và có năng lượng cao thứ năm về địa nhiệt trên quốc tế. [ 161 ]

Dân số lịch sử
Năm Số dân ±% năm
1927 13.554.000 —    
1930 14.440.000 +2.13%
1940 17.728.000 +2.07%
1950 20.807.000 +1.61%
1960 27.506.000 +2.83%
1970 35.321.000 +2.53%
1980 44.439.000 +2.32%
1990 55.120.000 +2.18%
2000 64.252.000 +1.54%
2010 73.003.000 +1.29%
2017 79.815.000 +1.28%
Nguồn: Turkstat[162]

Dựa theo hệ thống ghi chép dân số dựa theo địa chỉ của Thổ Nhĩ Kỳ, dân số toàn quốc là 74,7 triệu vào năm 2011,[163] gần ba phần tư trong đó cư trú tại thành thị. Theo ước tính năm 2011, dân số tăng trưởng 1,35%/năm. Thổ Nhĩ Kỳ có mật độ dân số trung bình là 97 người/km². Năm 2009, người trong nhóm tuổi 15-64 cấu thành 67,4% tổng dân số; nhóm tuổi 0-14 chiếm 25,3%; trong khi nhóm tuổi từ 65 trở lên chiếm 7,3%.[164] Năm 1927, khi điều tra nhân khẩu chính thức đầu tiên được tiến hành tại nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, dân số là 13,6 triệu.[165] Thành phố lớn nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ là Istanbul, đây cũng là thành phố lớn nhất châu Âu xét theo dân số, và là thành phố lớn thứ ba tại châu Âu theo kích thước.[166][167]

Điều 66 của Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ định nghĩa một người Thổ Nhĩ Kỳ là ” bất kể ai rằng buộc với vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ trải qua quan hệ công dân ” ; do đó về pháp lý thì thuật ngữ người Thổ Nhĩ Kỳ là một công dân Thổ Nhĩ Kỳ, độc lạ với định nghĩa dân tộc bản địa. [ 168 ] Đa số dân cư Thổ Nhĩ Kỳ thuộc dân tộc bản địa Thổ Nhĩ Kỳ, họ được ước tính chiếm 70-75 % dân số. [ 14 ] Không có tài liệu đáng an toàn và đáng tin cậy về thành phần dân tộc bản địa do tìm hiểu nhân khẩu tại Thổ Nhĩ Kỳ không gồm có số liệu về dân tộc bản địa. [ 169 ] Ba nhóm thiểu số được chính thức công nhận theo Hiệp ước Lausanne là người Armenia, người Hy Lạp và người Do Thái. Các dân tộc bản địa khác gồm có người Albania, người Ả Rập, người Azeri, người Bosnia, người Circassia, người Gruzia, người Laz, người Ba Tư, người Pomak ( Bulgaria ), và người Di-gan. [ 170 ] [ 171 ] Người Kurd là một dân tộc bản địa riêng không liên quan gì đến nhau, tập trung chuyên sâu đa phần tại những tỉnh đông nam của Thổ Nhĩ Kỳ, họ là nhóm thiểu số lớn nhất và chiếm khoảng chừng 18 % dân số toàn nước. [ 14 ] Các nhóm thiểu số khác ngoài người Kurd được cho là chiếm 7-12 % dân số. [ 14 ] Các dân tộc thiểu số ngoài ba dân tộc bản địa được công nhận chính thức như kể trên không có bất kể quyền hạn thiểu số nào. Bản thân thuật ngữ ” thiểu số ” vẫn là một yếu tố nhạy cảm tại Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi cơ quan chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục bị chỉ trích vì cách họ đối đãi với những hội đồng thiểu số. [ 172 ] Mặc dù những dân tộc thiểu số không được công nhận, tuy nhiên nhà nước quản lý và vận hành Công ty Phát thanh và Truyền hình Thổ Nhĩ Kỳ, phát sóng những chương trình truyền hình và phát thanh bằng những ngôn từ thiểu số. [ 173 ] [ 174 ]2,5 % dân số là những di dân quốc tế [ 175 ] và Thổ Nhĩ Kỳ chấp thuận đồng ý trên một triệu người tị nạn Syria từ khi Nội chiến Syria khởi đầu. [ 176 ]Ngôn ngữ chính thức của Thổ Nhĩ Kỳ là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, đây là ngôn từ mẹ đẻ của khoảng chừng 85 % dân số. Khoảng 12 % dân số nói tiếng Kurd như tiếng mẹ đẻ. Tiếng Ả Rập và tiếng Zaza là những ngôn từ mẹ đẻ của mỗi hơn 1 % dân số, và một vài ngôn từ khác là ngôn từ mẹ đẻ của những bộ phận dân cư nhỏ hơn. [ 16 ]

Tôn giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ ( năm nay ) [ 178 ]

 Hồi giáo Sunni (83.5%)

 Hồi giáo Shia
(Alevis, Ja’faris, Alawites) (13.5%)Hồi giáo Shia ( 13.5 % )

 Phi hồi giáo (1%)

 Vô thần (1%)

 Do Thái giáo (0.5%)

 Khác (0.3%)

 Công giáo Roma (0.2%)

Thổ Nhĩ Kỳ là một vương quốc thế tục không có quốc giáo chính thức ; Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ lao lý về tự do tôn giáo và lương tâm. [ 179 ] [ 180 ] Vị thế của tôn giáo đã là một yếu tố tranh luận trong nhiều năm kể từ khi những chính đảng Hồi giáo hình thành. [ 181 ] Trong nhiều thập niên, việc mặc hijab bị cấm chỉ trong trường học và tòa nhà cơ quan chính phủ do nó được nhận định và đánh giá là một hình tượng của Hồi giáo chính trị. Tuy nhiên, lệnh cấm bị bãi bỏ khỏi những ĐH vào năm 2011, và khỏi những tòa nhà chính phủ nước nhà vào năm 2013, [ 182 ] và khỏi những trường đại trà phổ thông vào năm năm trước. [ 183 ]

Hồi giáo là tôn giáo chiếm ưu thế tại Thổ Nhĩ Kỳ với 99,8% cư dân đăng ký là tín đồ Hồi giáo.[14][184] trong khi một số nguồn đưa ra một ước tính thấp hơn là 96,4%,[171] trong đó giáo phái phổ biến nhất là phái Hanafi của Hồi giáo Sunni. Quyền lực tôn giáo Hồi giáo tối cao thuộc về Chủ tịch sự vụ tôn giáo (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Diyanet İşleri Başkanlığı); chịu trách nhiệm quản lý hoạt động của khoảng 80.000 thánh đường có đăng ký trên toàn quốc và sử dụng các imam địa phương và cấp tỉnh.[185] Các nguồn hàn lâm đề xuất số tín đồ phái Alevi có thể là từ 15 đến 20 triệu,[186][187] và theo tạp chí Aksiyon thì số lượng tín đồ phái Imamiyyah (bao gồm Alevi) thuộc Hồi giáo Shia là 3 triệu (4,2%).[188] Thổ Nhĩ Kỳ cũng có một số tín đồ phái Sufi của Hồi giáo.[189] Khoảng 2% cư dân Thổ Nhĩ Kỳ là người Hồi giáo phi giáo phái.[190]

Tỷ lệ dân cư phi Hồi giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ giảm từ 19 % vào năm 1914 xuống 2,5 % vào năm 1927, [ 191 ] do những sự kiện có ảnh hưởng tác động đáng kể đến cấu trúc nhân khẩu vương quốc, như diệt chủng người Armenia, trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, [ 192 ] và sự di cư của những người phi Hồi giáo ra ngoại bang vốn thực sự khởi đầu vào cuối thế kỷ XIX và tăng cường vào một phần tư đầu của thế kỷ XX, đặc biệt quan trọng là trong Chiến tranh quốc tế thứ nhất và sau Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ giành độc lập. [ 193 ] Hiện nay có hơn 120.000 người là Fan Hâm mộ của những giáo phái Cơ Đốc giáo khác nhau, chiếm dưới 0,2 % dân cư Thổ Nhĩ Kỳ, [ 194 ] trong đó ước tính có 80.000 Fan Hâm mộ Chính thống giáo Cổ Đông phương, [ 195 ] 35.000 Fan Hâm mộ Công giáo La Mã, [ 196 ] 18.000 người Hy Lạp Antioch, [ 197 ] 5.000 Fan Hâm mộ Chính thống giáo Hy Lạp [ 195 ] và lượng nhỏ Fan Hâm mộ Tin Lành. [ 198 ] Giáo hội Chính thống giáo Đông phương có trụ sở tại Istanbul từ thế kỷ IV. [ 199 ] [ 200 ] Thổ Nhĩ Kỳ có 26.000 dân cư là người Do Thái, đại đa số họ thuộc nhánh Sephardi. [ 201 ]
Darülfünûn. Vào ngày 1 tháng 8 năm 1933, thế chế được tái tổ chức và trở thành đại học đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ.[202]Đại học Istanbul được thành lập vào năm 1453 với vị thế một. Vào ngày 1 tháng 8 năm 1933, thế chế được tái tổ chức và trở thành đại học đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ.Bộ Giáo dục Quốc dân chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về giáo dục tiền ĐH. [ 203 ] Giáo dục phổ thông là bắt buộc và lê dài trong 12 năm : bốn năm cho mỗi cấp tiểu học, sơ trung và cao trung. [ 204 ] Có dưới một nửa người Thổ Nhĩ Kỳ trong độ tuổi 25-34 triển khai xong một bậc trung học, so với tỷ suất trung bình trên 80 % của OECD. [ 205 ] Giáo dục đào tạo cơ bản tại Thổ Nhĩ Kỳ được đánh giá và nhận định là tụt hậu so với những vương quốc OECD khác, với độc lạ đáng kể. [ 206 ] Khả năng tiếp cận trường học chất lượng cao nhờ vào nhiều vào thành tích trong những kỳ thi nhập học cấp sơ trung, do vậy 1 số ít học viên mở màn tham gia những lớp học gia sư từ khi 10 tuổi. [ 206 ] Tỷ lệ người trưởng thành biết chữ vào năm 2011 là 94,1 % ; 97,9 % so với phái mạnh và 90,3 % so với phái đẹp. [ 207 ]Đến năm 2011, Thổ Nhĩ Kỳ có 166 ĐH. [ 208 ] Nhập học giáo dục bậc ĐH nhờ vào vào hiệu quả khảo thí tuyển chọn ÖSS. Năm 2008, hạn ngạch đảm nhiệm sinh viên là 600.000, trong khi có 1.700.000 tham gia thi ÖSS vào năm 2007. [ 209 ] Ngoại trừ khoa giáo dục mở tại Đại học Anadolu, nhập học được lao lý theo khảo thí ÖSS vương quốc, sau khi thi những học viên tốt nghiệp cao trung được phân vào những ĐH theo thành tích của họ. [ 210 ] Theo Xếp hạng ĐH quốc tế năm 2012 – 2013 của Times Higher Education, ĐH đứng đầu tại Thổ Nhĩ Kỳ là Đại học Kỹ thuật Trung Đông, tiếp sau là Đại học Bilkent và Đại học Koç, Đại học Kỹ thuật Istanbul và Đại học Boğaziçi. [ 211 ]
Văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ rất phong phú, là một sự trộn lẫn của những yếu tố khác nhau đến từ văn hóa truyền thống và truyền thống lịch sử Thổ Oğuz, Anatolia, Ottoman ( tiếp nối văn hóa truyền thống Hy-La và Hồi giáo ) và phương Tây – khởi đầu khi Ottoman Tây hóa và vẫn liên tục cho đến nay. Nguồn gốc của sự trộn lẫn này mở màn khi dân tộc bản địa và văn hóa truyền thống Thổ tiếp xúc với văn hóa truyền thống của những dân tộc bản địa cư trú trên hành trình dài mà họ di cư từ Trung Á về phía tây. [ 212 ] [ 213 ] Văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ là một mẫu sản phẩm của những nỗ lực thiết kế một vương quốc phương Tây ” tân tiến “, trong khi duy trì tôn giáo truyền thống cuội nguồn và những giá trị lịch sử vẻ vang. [ 212 ]
Hội họa Thổ Nhĩ Kỳ theo ý niệm phương Tây tăng trưởng tích cực mở màn từ giữa thế kỷ XIX. Các bài học kinh nghiệm hội họa tiên phong được đưa vào trong chương trình của thể chế mà nay là Đại học Kỹ thuật Istanbul vào năm 1793, đa phần cho những mục tiêu kỹ thuật. [ 214 ] Đến cuối thế kỷ XIX, hình tượng nhân vật trong ý niệm phương Tây được xác lập trong hội họa Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt quan trọng là với Osman Hamdi Bey. Nằm trong những xu thế đương thời, chủ nghĩa ấn tượng Open sau đó với Halil Paşa. Các họa sỹ Thổ Nhĩ Kỳ trẻ tuổi được cử đến châu Âu vào năm 1926 và được truyền cảm hứng từ những xu thế đương thời như dã thú, lập thể và thậm chí còn là bộc lộ. ” Nhóm D ” gồm những họa sỹ mà đứng đầu là Abidin Dino, Cemal Tollu, Fikret Mualla, Fahrünnisa Zeid, Bedri Rahmi Eyüboğlu, Adnan Çoker và Burhan Doğançay ra mắt một số ít xu thế đã sống sót bên phương Tây trong hơn ba thập niên. Các trào lưu quan trọng khác trong hội họa Thổ Nhĩ Kỳ là ” Yeniler Grubu ” vào cuối thập niên 1930 ; ” On’lar Grubu ” trong thập niên 1940 ; ” Yeni Dal Grubu ” trong thập niên 1950 ; ” Siyah Kalem Grubu ” trong thập niên 1960. [ 215 ]

Sự tương tác giữa Ottoman và thế giới Hồi giáo cùng châu Âu góp phần vào sự pha trộn các truyền thống Thổ, Hồi giáo, và châu Âu trong âm nhạc và văn học Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay.[216] Văn học Thổ Nhĩ Kỳ chịu tác động mạnh từ văn học Ba Tư và Ả Rập trong hầu hết thời kỳ Ottoman. Các cải cách Tanzimat đưa đến các thể loại của văn học phương Tây mà người Thổ chưa được biết đến trước đó, chủ yếu là tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhiều tác gia trong thời kỳ Tanzimat đồng thời viết trong vài thể loại: như nhà thơ Nâmık Kemal cũng sáng tác tiểu thuyết trọng yếu mang tên İntibâh vào năm 1876. Hầu hết căn nguyên của văn học Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại được hình thành từ năm 1896 đến năm 1923. Về đại thể, có ba phong trào văn học chủ yếu trong thời kỳ này: Phong trào Edebiyyât-ı Cedîde (tân văn); Fecr-i Âtî (bình minh tương lai); và Millî Edebiyyât (quốc văn). Bước đi cấp tiến đầu tiên về cách tân trong thi đàn Thổ Nhĩ Kỳ là của Nâzım Hikmet, ông đưa vào phong cách thơ tự do. Cuộc cách mạng khác trong thi đàn Thổ Nhĩ Kỳ đến vào khoảng năm 1941 cùng với Phong trào Garip. Tiểu thuyết gia người Thổ Nhĩ Kỳ Orhan Pamuk nhận giải Nobel Văn học năm 2006.[217]

Thổ Nhĩ Kỳ có văn hóa vũ điệu dân gian đa dạng. Hora được biểu diễn tại Đông Thrace; Zeybek tại khu vực Aegea, Nam Marmara và Đông-Trung Anatolia; Teke tại khu vực Tây Địa Trung Hải; Kaşık OyunlarıKarşılama tại Tây-Trung Anatolia, Tây Hắc Hải, Nam Marmara và Đông Địa Trung Hải; Horon tại khu vực Trung và Đông Hắc Hải; Halay tại Đông Anatolia và Trung Anatolia; và Bar cùng Lezginka tại Đông Bắc Anatolia.[218]

Bưu điện Lớn ( 1905 – 1909 ) tại Istanbul và trụ sở tiên phong của Ngân hàng Ziraat ( 1925 – 1929 ) tại Ankara nằm trong số những mẫu về kiến trúc tân cổ xưa Thổ Nhĩ Kỳ vào đầu thế kỷ XX .Kiến trúc của người Thổ Seljuk tích hợp những yếu tố và đặc thù của kiến trúc Thổ Trung Á với kiến trúc Ba Tư, Ả Rập, Armenia, và Byzantine. Chuyển biến từ kiến trúc Seljuk sang kiến trúc Ottoman dễ nhận thấy nhất là tại Bursa, đây là kinh đô của Ottoman từ năm 1335 đến năm 1413. Sau khi Ottoman chinh phục Constantinopolis ( Istanbul ) vào năm 1453, kiến trúc Ottoman chịu tác động ảnh hưởng đáng kể từ kiến trúc Byzantine. Cung điện Topkapı tại Istanbul là một trong những mẫu nổi tiếng nhất về kiến trúc Ottoman cổ xưa và là dinh thự chính của những Sultan trong khoảng chừng 400 năm. [ 219 ] Mimar Sinan là kiến trúc sư tối quan trọng của thời kỳ cổ xưa trong lịch sử dân tộc kiến trúc Ottoman. Ông là kiến trúc sư trưởng của tối thiểu 374 tòa nhà được xây tại nhiều tỉnh của Đế quốc trong thế kỷ XVI. [ 220 ]

Kể từ thế kỷ XVIII, kiến trúc Thổ Nhĩ Kỳ chịu ảnh hưởng ngày càng tăng từ các phong cách châu Âu, và điều này có nhận thấy cụ thể trong các tòa nhà thời kỳ Tanzimat của Istanbul như các cung điện Dolmabahçe, Çırağan, Feriye, Beylerbeyi, Küçüksu, Ihlamur và Yıldız.[221] Các nhà bên bờ biển (yalı) tại eo biển Bosphorus cũng phản ánh pha trộn giữa các phong cách Ottoman cổ điển và châu Âu trong thời kỳ đó. Phong trào kiến trúc quốc gia thứ nhất vào đầu thế kỷ XX tìm cách tạo một kiến trúc mới, dựa trên các motif từ kiến trúc Seljuk và Ottoman. Phong trào cũng được gán cho tên Tân cổ điển Thổ Nhĩ Kỳ hay Phục hưng kiến trúc quốc gia.[222] Các kiến trúc sư hàng đầu trong phong trào này là Vedat Tek, Mimar Kemaleddin Bey, Arif Hikmet Koyunoğlu và Giulio Mongeri.[223] Các tòa nhà nổi bật từ thời kỳ này là Bưu điện Lớn tại Istanbul (1905-1909), Chung cư Tayyare (1919-1922),[224] hay trụ sở đầu tiên của Türkiye İş Bankası tại Ankara (1926-1929),[225] Bebek Mosque,[226]

Thổ Nhĩ Kỳ giành huy chương bạc tại Giải vô địch bóng rổ quốc tế năm 2010 .Môn thể thao phổ cập nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ là bóng đá. [ 227 ] Câu lạc bộ Galatasaray giành thắng lợi tại UEFA Cup và UEFA Super Cup năm 2000. [ 228 ] Đội tuyển bóng đá vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ xếp thứ ba và giành huy chương đồng tại Giải vô địch bóng đá quốc tế 2002 và tại Cúp Liên đoàn những lục địa 2003 ; trong khi cũng vào đến bán kết tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008. [ 229 ]Các môn thể thao chủ lưu khác như bóng rổ và bóng chuyền cũng phổ cập tại Thổ Nhĩ Kỳ. Đội tuyển bóng rổ nam vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ xếp thứ nhì và giành huy chương bạc tại Giải vô địch bóng rổ quốc tế 2010 và tại Giải bóng rổ châu Âu 2001, cả hai giải đều được tổ chức triển khai tại Thổ Nhĩ Kỳ. Câu lạc bộ bóng rổ Anadolu Efes S.K. vô địch tại Giải Korać 1995 – 1996, xếp thứ nhì tại Cúp Saporta 1992 – 93, xếp thứ ba tại Euroleague và Suproleague 2000 – 2001. [ 230 ] [ 231 ]Đội tuyển bóng chuyền nữ vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ giành huy chương bạc tại Giải vô địch châu Âu 2003, giành huy chương đồng tại Giải vô địch châu Âu 2011 và 2012 FIVB World Grand Prix. Họ cũng giành huy chương vàng ( 2005 ), huy chương bạc ( 1987, 1991, 1997, 2001, 2009, 2013 ) và huy chương đồng ( 1993 ) tại Đại hội Thể thao Địa Trung Hải. [ 232 ]

Môn thể thao truyền thống quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ là yağlı güreş (đấu vật ngâm dầu) từ thời kỳ Ottoman.[233] Thành phố Edirne tổ chức thi đấu vật ngâm dầu thường niên Kırkpınar kể từ năm 1361.[234] Các thể thức đấu vật quốc tế do FILA quản lý như đấu vật tự do và đấu vật cổ điển cũng phổ biến, các đô vật người Thổ Nhĩ Kỳ giành được nhiều danh hiệu ở tầm châu Âu, thế giới, và Thế vận hội cả ở nội dung cá nhân và đội tuyển quốc gia.[235]

Ẩm thực Thổ Nhĩ Kỳ được cho là một trong những nền siêu thị nhà hàng nổi tiếng nhất trên quốc tế, sự phổ cập của nó phần nhiều là do tác động ảnh hưởng văn hóa truyền thống của Ottoman và một phần là nhờ ngành du lịch có quy mô lớn của Thổ Nhĩ Kỳ. Ẩm thực Thổ Nhĩ Kỳ phần nhiều là di sản của ẩm thực ăn uống Ottoman – một sự hợp nhất và chắt lọc những nền nhà hàng siêu thị Trung Á, Kavkaz, Trung Đông, Địa Trung Hải và Balkan. [ 238 ]

Vị trí địa lý nằm giữa phương Đông và Địa Trung Hải giúp cho người Thổ Nhĩ Kỳ hoàn toàn kiểm soát các tuyến đường mậu dịch lớn, và có một môi trưởng lý tưởng cho thực vật và động vật phát triển. Ẩm thực Thổ Nhĩ Kỳ được thiết lập từ giữa thập niên 1400, lúc khởi đầu Ottoman. Salad sữa chua, cá ngâm dầu ô liu, và các loại rau nhồi và bao trở thành các sản phẩm chủ yếu của Thổ Nhĩ Kỳ. Đế quốc cuối cùng trải rộng từ Áo đến Bắc Phi, sử dụng các đạo lộ và thủy lộ của mình để nhập khẩu các nguyên liệu ngoại lai từ khắp nơi trên thế giới. Đến cuối thập niên 1500, triều đình Ottoman có trên 1.400 đầu bếp nội trú và thông qua các luật quy định tính tươi nguyên của thực phẩm. Từ khi Đế quốc sụp đổ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và nước Cộng hòa Thổ Nhì Kỳ được thành lập, các thực phẩm ngoại quốc như xốt hollandaise Pháp và thực phẩm ăn nhanh phương Tây trở thành đồ ăn thường nhật của người Thổ Nhĩ Kỳ.[239]

Hàng trăm kênh truyền hình, hàng nghìn đài phát thanh địa phương và quốc gia, cùng báo chí, một ngành điện ảnh phong phú và sinh lợi, phát triển nhanh chóng của internet băng thông rộng tạo một ngành truyền thông sôi động tại Thổ Nhĩ Kỳ.[240] Năm 2003, tổng cộng có 257 đài truyền hình và 1.100 đài phát thanh được cấp phép hoạt động, và các đài khác hoạt động mà không được cấp phép. Trong số các đài được cấp phép, có 16 đài truyền hình và 36 đài phát thanh tiếp cận khán giả toàn quốc.[241] Đa số khán giả được phân chia giữa đài công cộng TRT và các kênh kiểu mạng lưới như Kanal D, Show TV, ATV và Star TV. Truyền thông quảng bá có độ thâm nhập rất cao do các hệ thống chảo vệ tinh và cáp hiện hữu rộng rãi.[241] Hội đồng Tối cao Phát thanh và Truyền hình là một thể chế của chính phủ có trách nhiệm quản lý truyền thông quảng bá.[241] Tính theo lưu thông, các nhật báo phổ biến nhất là Zaman, Posta, Hürriyet, Sözcü, Sabah và Habertürk.[242] Phim truyền hình Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở nên phổ biến bên ngoài biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, và nằm trong các mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của quốc gia cả về lợi nhuận và các quan hệ công chúng.[243] Freedom House xếp hạng truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ là không tự do.[244]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Tổng thể
Chính phủ
Du lịch
Kinh tế