LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP – useful – A : PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hoạt động tạo hình của trẻ nhỏ – Studocu
Nội Dung Chính
A : PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hoạt động tạo hình của trẻ nhỏ là một loại hoạt động mang tính nghệ thuật . Hiệu quả của nó không phụ thuộc vào ý chí mà phụ thuộc vào yếu tố xúc cảm, tình cảm vào hứng thú của trẻ. Hứng thú trong hoạt động tạo hình làm nẩy sinh ra những ý tưởng thú vị, các sản phẩm tạo hình đầy vẻ hồn nhiên.Hứng thú trong hoạt động tạo hình của trẻ là điều kiện để kích thích trí tưởng tượng sáng tạo thôi thúc trẻ luôn luôn tìm tòi cách tạo ra những hình tượng mới mẻ.
Hoạt động tạo hình đóng vai trò quan trọng trong chương trình giáo dục trẻ ở trường mầm non. Nó là một trong những hoặt động hấp dẫn nhất đói với trẻ mẫu giáo, tạo hình giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện lại một cách sinh động những gì chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh, những gì làm cho trẻ rung động mạnh mẽ và gây cho chúng những rung động xúc cảm, tình cảm tích cực. Hoạt động tạo hình là một hoặt động có đầy đủ điều kiện để đảm bảo sự tác động đồng bộ lên mọi mặt phát triển của trẻ về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và hình thành các phẩm chất, kĩ năng ban đầu của con người như một thành viên của xã hội biết tích cực, sáng tạo. Hoạt động tạo hình phát triển ở trẻ khả năng quan sát, trí tưởng tượng sáng tại, khả năng phối hợp giữa mắt và tay, hoàn thiện những kĩ năng cơ bản (vẽ, nặn, xé dán, cắt)
Do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi mà trong hoạt động, trẻ thơ thường ham thích một cái gì đó rất nhanh nhưng rồi cũng chóng chán. Muốn cho trẻ có được hứng thú lâu bền thì cô giáo phải tạo những yếu tố mới lạ để hấp dẫn trẻ, thu hút trẻ tạo ra được sự chú ý có tính chất kiên định với những đối tượng cần miêu tả nào đó. Hình thành và phát triển toàn diện cho trẻ những chức năng tâm lí, cơ sở ban đầu của nhân cách, năng lực làm người và kĩ năng cơ bản để trẻ chuẩn bị bước vào trường phổ thông; đặc biệt là hoạt động xé dán.
Giáo dục mầm non ngày càng đòi hỏi chất lượng dạy và học nhằm đáp ứng kịp thời sự phát triển thay đổi của đất nước. Nhu cầu của phụ huynh cũng đặt hy vọng vào thầy cô ngày càng cao nếu trẻ không được bòi dưỡng, phát huy tính tích cực, sáng tạo thì làm sao mà trẻ có thể phát triển toàn diện được. Hơn nữa đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi việc cho trẻ hoạt động tạo hình -đặc biệt là hoạt động xé dán-cũng là một vấn đề cần thiết nhằm phát triển kiến thức, kĩ năng và thể hiện nghệ thuật. Thông qua hoạt động tạo hình đem đến cho trẻ ấn tượng về cái đẹp và những cảm xúc chân thật, những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách con người
Những lý do trên đây cộng với niềm say mê và yêu thích với hoạt động tạo hình của trẻ em, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu về : Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển kỹ năng xé dán.
Hy vọng, kết quả của đề tài sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng hoạt động tạo hình xé dán ở trẻ 5-6 tuổi
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của hoạt động tạo hình xé dán tới mức độ hứng thú trong hoạt động tạo hình của trẻ 5-6 tuổi. Từ đó tìm kiếm các biện pháp nâng cao hiệu quả sự phát triển nhân cách và hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
3.1. Khách thể nghiêm cứu :
3.2. Đối tượng nghiên cứu :
Một số biện pháp cách thức sử dụng vật liệu khác nhau vào việc tổ chức hoạt động tạo hình xé dán nhằm nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi .
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC :
Nếu tìm ra những phương pháp biện pháp thích hợp sử dụng thiên nhiên, vật liệu thiên nhiên vào trong hoạt động tạo hình thì nhà sư phạm có thể nâng cao được hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình và phát triển khả năng tạo hình cho trẻ.
5. NHIỆM VỤ CỦA NGHIÊM CỨU :
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu thực trạng của việc sử dụng vật liệu khác nhau vào việc tổ chức hoạt động tạo hình xé dán nhằm nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình xé dán cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trường mầm non hiện nay. Đưa ra và thực nghiệm áp dụng một số biện pháp sử dụng vật liệu khác nhau vào việc tổ chức hoạt động tạo hình xé dán nhằm nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
6 . PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
7. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
7.1 Phương pháp Nghiên cứu lý luận :
Đọc và tìm hiểu, phân tích và hệ thống hóa các tài liệu tâm lý học, giáo dục về hứng thú, về hoạt động tạo hình của trẻ nhỏ, nghiên cứu các tài liệu về các vấn đề liên quan.
7.2 Phương pháp quan sát tự nhiên:
7.3 Phương pháp điều tra :
7.4 Phương pháp thực nghiệm
7.4.1. Thực nghiệm khảo sát :
Bài 1 : Xé dán theo mẫu
Bài 2 : Xé dán theo ý thích
Đối với cả hai nhóm trẻ ( đối chứng và thực nghiệm ).
7.4.2. Thực nghiêm hình thành
Chia trẻ thành hai nhóm đồng đều nhau về thể lực và khả năng : Nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm.
Tổ chức các hoạt động tạo hình với các hình thức phương pháp khác nhau nhưng nội dung chương trình như nhau.
7.4.3. Thực nghiệm kiểm chứng :
Từ đó đi đến nhận xét và kết luận sự khác biệt về mức độ hứng thú giữa hai nhóm trẻ.
7.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ.
Dựa vào các tiêu chuẩn đánh giá để phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ
8. Kế hoạch nghiên cứu: ( 4 tháng, từ 1/5/2018 đến 31/8/2018 )
B . NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I . CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊM CỨU
1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ :
Hoạt động tạo hình của trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo là một trong những hoạt động thu hút nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà tâm lý học và giáo dục học trong nước và nước ngoài.
2.MỘT SỐ KHÁI NIỆM
2.1: Khái niệm “hoạt động tạo hình”
2.2 : “Đặc điểm của quá trình hoạt động tạo hình sáng tạo của trẻ mẫu giáo”.
3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM ĐẶC TRƯNG CỦA HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH XÉ DÁN SÁNG TẠO CỦA TRẺ MẪU GIÁO:
Khả năng sáng tạo là đặc điểm riêng đặc thù của con người, làm cho con người tách riêng khỏi thế giới động vật, có khả năng không chỉ sử dụng thực tiễn mà còn có thể thay đổi, cải tạo thực tiễn .khả năng của con người phát trển đến mức độ cao bao nhiêu ,thì khả năng mở rộng sáng tạo càng lớn bấy nhêu. Sự hiểu biết đúng đắn về khả năng sáng tạo của trẻ yêu cầu nhà sư phạm phải có ý thức về đặc điểm hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung phải biết người họa sỹ sử dụng những phương tiện tạo hình nào để xây dựng nên hình tượng nghệ thuật ,hoạt động sáng tạo ấy thông qua những giai đoạn nào?
3.1. Đặc điểm của sự sáng tạo trong hoạt động tạo hình:
Người họa sỹ phải tích lũy một số vốn biểu tượng phong phú về biểu tượng về sự vật hiện tượng xung quanh, chọn lọc một cách tinh tế những gì tinh hoa nhất trong vô vàn biểu tượng đã thu nhận được để xây dựng nên một biểu tượng mới.
+Giai đoạn đầu của sự sáng tạo là sự xuất hiện chủ đề .những ý định đầu tiên có thể chưa rõ ràng ,chưa cụ thể, như vậy sự ấp ủ ý định là giai đoạn 2 của sự sáng tạo . +Giai đoạn 3 là thực hiện ý đồ, trong quá trình đó tiếp tục củng cố và hoàn thiện nội dung,đưa ý định và một dáng vẻ cụ thể. +Kết thúc quá trình sáng tạo là sự ra đời của hình tượng nghệ thuật. Sức sống tiếp theo của tác phẩm là ý nghĩa của xã hội của nó. Gây tác động đến đông đảo quần chúng.như vậy, sáng tạo nghệ thuật là một quá trình phức tạp của sự nhân thức sự thể hiện hình ảnh thế giới xung quanh.
3.2. Đặc điểm của quá trình sáng tạo ở trẻ em mẫu giáo:
3.3. Sự hình thành các phương tiện truyền cảm trong hoạt động vẽ của Trẻ:
3.4. Vai trò của hoạt động tạo hình đối với sự phát huy tính sáng tạo:
4. Nội dung nghiên cứu
4.1. Một số vấn đề về hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo:
a. Đặc điểm tạo hình của trẻ mẫu giáo.
Hoạt động tạo hình là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, nó cũng giống như các hoạt động sáng tạo nghệ thuật khác như:Âm Nhạc, Văn , Thơ, Kịch, Điện ảnh……đều là những hoạt động sáng tạo, tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội .Hoạt động tạo hình là một hoạt động sáng tạo đặc biệt trong đó con người không chỉ cảm nhận cái đẹp của thế giới xung quanh mà còn cải tạo thế giới theo quy luật của cái đẹp.
Tạo hình là một loại hình nghệ thuật hấp dẫn đối với trẻ em. có thể nói không có em nhỏ nào lại không thích ngắm nhìn những bức tranh, những đồ chơi đẹp. Đặc biệt trẻ thích tự tay mình vẽ, nặn, hay xé dán hình người, hình con vật hay đồ vật,phong cảnh mà mình thích. Chúng ta thường hay bắt gặp những “họa sỹ” tí hon say sưa ngồi vẽ hàng giờ đồng hồ. Chúng vẽ la liệt ở khắp mọi nơi trên giấy, trên bảng, trên sàn,…và bằng các phương tiện : phấn, que, lõi than, bút chì, bút mưc,…Tuy nhiên hoạt động tạo hình của trẻ nhỏ chưa phải là hoạy động nghệ thuật thực thụ. Qúa trình hoạt động và sản phẩm của hoạt động tạo hình của trẻ thể hiện các đặc điểm của một nhân cách đang dược hình thành. Hoạt động tạo hình của trẻ không nhằm mục đích tạo nên những sản phẩm phục vụ xã hội, cải tạo thế giới xung quanh. Mục đích và kết quả của nó chính là sự biến đổi, phát triển của bản thân chủ thể hoạt động.
Hoạt động tạo hình của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo bao gồm các loại hình hoạt động như : vẽ, nặn, xé dán, làm mô hình… Những hoạt động này đã tập cho trẻ xem xét sự vật mà mình định thể hiện và nghiên cứu sự vật một cách tỷ mỷ là quá trình trẻ phản ánh những sự vật từ cuộc sống xung quanh cùng những suy nghĩ của trẻ bằng các chất liệu nghệ thuật khác nhau các phương tiên khác nhau thông qua hình tượng mang tính nghệ thuật.
Một đặc điểm rất rõ nét trong hoạt động tạo hình của trẻ em là tính duy kỷ. Xem tranh xé dán của trẻ nhỏ cái mà trẻ quan tâm hơn cả là “xé dán cái gì”chứ không phải là “xé dán như thế nào”. Khác với người lớn trẻ tiến hành hoạt động tạo hình với sự hồn nhiên vốn có. Ngay từ nhỏ đứa trẻ đã có những thao tác của hoạt động tạo hình. Trẻ tạo ra những sản phẩm từ những nguyên liệu và phương tiện của hoạt động tạo hình một cách tự nhiên chưa có ý thức trẻ sẵn sàng vẽ bất cứ cái gì không biết sợ không biết đến những khó khăn khi miêu tả. Chúng có thẻ cầm bất cứ thứ gì như que, viên phấn, bút để vạch lên tờ giấy hoặc đất, những nét nghuệch ngoạc. Chúng thích thú và ngạc nhiên khi tạo ra ngững đường nét nghoằn nghèo đó. Cứ như việc chúng chơi với những sản phẩm mà chúng vừa tạo ra, những đường nét đó đã kích thích chúng tích cực hoạt động hơn.
Cũng như hoạt động ngôn ngữ ,mối quan tân chính trong hoạt động tạo hình của trẻ tập trung vào sự thể hiện, biểu cảm chứ chưa phải là giá trị nghệ thuật thực sự của tác phẩm. Trẻ càng nhỏ càng ít quan tâm tới người xem mà chỉ cố gắng truyền đạt suy nghĩ ,thái độ, tình cảm của mình trước những gì được miêu tả dưới con mắt của trẻ thơ .khi quan sát quá trình tạo hình của trẻ trên tiết học chúng ta thấy nếu không diễn tả thành công bằng hình tượng tạo hình về đối tượng miêu tả thì trẻ sẽ tích cực bù đắp bằng âm thanh ,lời nói, cử chỉ ,điệu bộ….. bên cạnh đó do sự chú tâm vào ý tưởng tạo hình mà trẻ thường hài lòng với những hình vẽ sơ đồ đơn giản.
Cùng với tính duy kỷ, tính không chủ định trong các quá trình tâm lý cũng tạo cho tranh của trẻ mầm non có những nét khác biệt so với tranh của người lớn hay họa sỹ.
Khác từ trước tới nay ,có thể quy về 4 nguồn gốc của sự sáng tạo như sau:
Những nhà sáng tạo cho ta thấy rõ 4 nguyên nhân đó ở mức độ ít nhiều đậm nhạt khác nhau ở mỗi việc làm, tùy theo đối tượng sáng tạo. Bốn nguyên nhân đó là kim chỉ nam giúp bạn sáng tạo, giúp người khác sáng tạo, giúp người quản lý cách nghĩ và cách làm để có nhiều sáng tạo.
b. Khái niệm về sáng tạo:
Sáng tạo (Greation)là tạo ra giá trị mới, giá trị mới có ích hay có hại là tùy theo quan điểm người sử dụng và đối tượng nhận hậu quả của việc sử dụng.
Sáng tạo còn có nghĩa là thành phần không thể thiếu trong cấu trúc tâm lý. Nó được coi là dạng hoạt động đặc biệt ,là biểu hiện cao nhất trong đời sống tâm lý con người.Tâm Lý học đã đưa ra kết luận rằng: (tất cả mọi người đều có khả năng sáng tạo sáng tạo nhỏ hoặc sáng tạo lớn. Nếu được rèn luyện thì sáng tạo sẽ phát trển không ngừng ,nếu không thì sáng tạo sẽ bị ai một. Sáng tạo lớn có ý nghĩa vĩ đại nhưng nếu không có những sáng tạo nhỏ để trển khai thì những sáng tạo lớn cũng chỉ là lý thuyết .tư duy sáng tạo ở đây rất cần cho mọi người và là tiêu chuẩn chính để đánh giá và đào tạo người lao động .do đó hiện nay nhiều nước trên thể giới đã đưa ra nội dung “tư duy sáng tạo”vào trường học nhằm chủ động chuẩn bị lực lượng lao độngcó năng suất cao trong tương lai của họ.mỗi người chúng ta cần sáng tạo bởi vì tư duy sáng tạo là tài nguyên cơ bản nhất của con người ,là nguồn gốc chính sinh ra sự giàu có, thịnh vượng của một gia đình, một quốc gia.
c. Sản phẩm sáng tạo:
Có thể khẳng định rằng kết quả của hoạt động sáng tạo bao giờ cũng là sản phẩm sáng tạo. Theo nhà tâm lý người mỹ M.I Stein thì sáng tạo là một quá trình mà sản phẩm của nó là cái mới, cái độc đáo ,cái có giá trị và được thừa nhận ít nhất là của một nhóm xã hội . như vậy ,theo tác giả một vấn đề dược quan tâm thống nhất khi nói đến sản phẩm của hoạt động sáng tạo là những cái mới ,cái độc đáo ,có giá trị. đó là chỉ số phân biệt sản phẩm sáng tạo và không sáng tạo. mặc dù cái mới được các tác giả thống nhất là tiêuchuẩn chủ yếu của sản phẩm sáng tạo nhưng không nên hiểu tiêu chuẩn này một cách tuyệt đối bởi cái mới bao giờ cũng là cái kế thừa ,có nguồn gốc từ cái cũ.
Các nhà bác học cho rằng sự sáng tạo không chỉ có ở nơi nào tạo ra sản phẩm vĩ đại mà nó có ở khắp nơi, nơi mà con người tạo ra cái gì biến đổi mới, cho dù là cái mới đó thực ra rất nhỏ bé so với các sáng tạo của các bậc thiên tài. Tất cả những gì vượt ngoài khuôn khổ cũ và chứa đựng dù chỉ là một nét của cái mới thì nguồn phát sinh của nó đều do sáng tạo của con người. một vấn đề đặt ra là sản phẩm trong hoạt động của trẻ có được gọi là sản phẩm sáng tạo hay không? Điều này được nhiều nhà khoa học quan tâm. Họ cho rằng nếu xét nghiêm ngặt nghèo theo chỉ số của sản phẩm sáng tạo thì sản phẩm của trẻ chưa được coi là sản phẩm sáng tạo vì vậy một số tác giả đã bỏ thuật ngữ “sáng tạo của trẻ”thay bằng thuật ngữ “ tiền sáng tạo”để chỉ hoạt động sáng tạo của trẻ em. Hiện nay các nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu phân biệt hai loại sản phẩm sáng tạo sau:
d. Môi trường để sáng tạo:
Để tồn tại và phát trển con người cần thích ứng với môi trường xung quanh. Có thể nói môi trường là điều kiện, là vườn ươm của sự sáng tạo. Nếu môi trường thuận lợi sẽ giúp cho con người phát trển hơn, ngược lại nếu môi trường không tốt sẽ kìm hãm sự phát trển của con người nói chung và hoạt động sáng tạo nói riêng. Môi trường tự nhiên cung cấp cho con người thức ăn, nước uống, không khí và nhiều nguồn tài nguyên khác. Trong môi trường tự nhiên tốt thì con người cũng dễ dàng cảm thấy thoải mái hơn trong hoạt động, dễ đương đầu với khó khăn hơn và từ đó sẽ có những ý tưởng sáng tạo sẽ nảy sinh. Chính vì vậy mà ta phải giáo dục trẻ tình yêu thiên nhiên, có ý thức chăm sóc bảo vệ thiên nhiên. Môi trường xã hội là điều kiện không thể thiếu để hỗ trợ cá nhân sáng tạo. Sáng tạo sẽ được phát trển một cách tốt đẹp trong các gia đình biết động viên con học tập và bố mẹ là chỗ dựa tình cảm cho con cái. Theo một tác giả người Mỹ thì một gia đình biết nâng đỡ và khuyến khích trẻ giúp trẻ phát trển tài năng ,không khí thân thiện trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến khả năng sáng tạo của trẻ. Còn những đứa trẻ thiếu sự quan tâm của gia đình sẽ cảm thấy phiền muộn và thất vọng vì vậy mà khả năng sáng tạo cũng khó phát trển cùng với môi trường gia đình thì môi trường ở nhà trường cũng vô cùng quan trọng đối với trẻ nhỏ vì ngoài thời gian ở nhà thì thời gian ở trường là rất lớn vì vậy mà ngoài việc phải cung cấp nội dung, tri thức kỹ năng, kỹ xảo, nhà trường cần khuyến khích trẻ sáng tạo thông qua phương pháp,nội dung,tạo môi trường….môi trường xã hội, phong tục, tập quán ….cũng đóng góp một vai trò không nhỏ trong việc hình thành nhân cách. Môi trường nào có nhiều điều khiến người ta quan tâm tìm hiểu thì ở môi trường đó dễ phát trển tính sáng tạo. Chính vì vậy việc tổ chức dạy và học không chỉ giúp trẻ tích lũy vốn hiểu biết mà cần phải khuyến khích,động viên sự ham hiểu biết, sự say mê, ý chí quyết tâm thực hiên nhiệm vụ được giao đến cùng. Hoạt động sáng tạo có ý nghĩa quan trong đối với sự tiến bộ của xã hội và nhân cách. Vì vậy việc giáo dục để phát trển được nhiều khả năng sáng tạo được nhiều nhà khoa học quan tâm ,và người ta chỉ ra rằng chúng ta sẽ không thể sáng tạo nếu làm trong môi trường bị gò ép ,thúc bách không thoải mái là sự thiếu tự tin vào bản thân sự không tôn trong của những người xung quanh khi mới bắt tay vào làm ……Chính vì vậy mà ngay từ khi còn nhỏ gia đình cững như các thầy cô giáo phải luôn đặt niềm tin là trẻ nào cũng có thể sáng tạo ,làm cho trẻ yêu thích hoạt động là điều dễ hiểu .
e. Sáng tạo của trẻ 5 – 6 tuổi:
Các nhà tâm lý học khẳng định rằng :sáng tạo là khả năng của mỗi cá nhân bình thường, sự khác nhau giữa các cá nhân chỉ là mức độ. Có những người có khả năng sáng tạo cao, lại có nhiều người khác lại ở mức độ bình thường, yếu, có nghĩa là con người có khả năng sáng tạo trong các giai đoạn là khác nhau. Và sáng tạo của trẻ em được coi là cấp độ đầu tiên, cấp độ sáng tạo biểu hiện ,bởi nó không đòi hỏi tính độc đáo quá hay những kỹ năng cao siêu nào đó, nó được bộc lộ qua những hoạt đông như: vẽ, nặn, xé dán….
Đặc biệt với trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi khi trẻ đã có ý thức tự thân rõ rệt, cùng với vốn kinh nghiệm ,những quá trình tâm sinh lý phát trển, lại được sự quan tâm, động viên khuyến khích của gia đình, bạn bè và thầy cô thì sự sáng tạo trong các hoạt động dược thể hiện khá rõ. Trẻ 5-6 tuổi đã nắm được cấu trúc, phân biệt được phần chính, phần phụ, quy luật xắp xếp các thành phần của tranh xếp dán. Ở tuổi này trẻ có thể tự mình lựa chon cách thể hiện mà không cần đến sự giúp đỡ của giáo viên. Việc lựa chọn và đưa ra những chủ điểm mới, những vật liệu mới, những phương pháp, những biện pháp mới ….để kích thích trẻ hoạt động là vô cùng quan trọng.
5. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH CHO TRẺ MẦM NON
5.1. Nhóm phương pháp thông tin tiếp nhận:
Đây là nhóm phương pháp tạo điều kiện cho trẻ phát triển tri giác thẩm mỹ, giúp trẻ hiểu được nội dung miêu tả ( hiểu được mối quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức của đối tượng miêu tả ) hình thành hứng thú và tình cảm thẩm mỹ, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ.
Nhóm phương pháp này bao gồm các quá trình tổ chức, quan sát đối tượng miêu tả, chỉ dẫn các phương thức hoạt động nhằm thể hiện đối tượng quan sát. Trong nhóm này có 3 phương pháp cơ bản : Quan sát – chỉ dẫn , trực quan và dùng lời nói.
Trong tạo hình , người ta tổ chức cho trẻ quan sát, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, các sự kiện trong xã hội và các tác phẩm nghệ thuật ( các phương tiện truyền cảm trong các tác phẩm tạo hình… ). Nhờ có quá trình này mà trẻ có những hiểu biết phong phú về cái đẹp trong thế giới xung quanh và nắm dần phương thức tạo ra cái đẹp. Quá trình quan sát cần được tiến hành một cách sinh động để gây hứng thú và hình thành các tình cảm thẩm mỹ. Muốn vậy, người ta kết hợp sử dụng rất nhiều các biện pháp kích thích xúc cảm ( bài hát, câu thơ, câu đố… ) và các biện pháp hình thức chơi.
Quá trình chỉ dẫn là quá trình giúp trẻ lĩnh hội các phương thức tạo hình ( cách thức miêu tả ). Qua chỉ dẫn người ta tập cho trẻ cách sử dụng các loại dụng cụ vật liệu, chất liệu theo đúng cách. Đồng thời tập cho trẻ sử dụng các phương tiện truyền cảm mang tính tạo hình ( đường nét, màu sắc, hình dạng, bố cục… ) để thể hiện các hình tượng qua các hoạt động vẽ, nặn, xếp, dán.
Việc nắm bắt các phương thức miêu tả sẽ trở nên dễ dàng nếu việc chỉ dẫn được tiến hành nhẹ nhàng phù hợp với sự tiếp thu của trẻ, với sự thay đổi các biện pháp hình thức phong phú, có sự phối hợp linh hoạt giữa chỉ dẫn toàn phần với chỉ dẫn từng phần.
Trong nhóm phương pháp thông tin-tiếp nhận về việc dùng lời nói là rất quan tọng. Đó là những lời giải thích, lời hướng dẫn, những lời kể, những câu hỏi, câu trả lời, đồng thời những lời nói mang tính xúc cảm như bài hát, bài thơ, câu chuyện, câu đố. Những lời nói của cô giáo trong quá trình tổ chức hoạt động tạo hình phải chính xác, cụ thể và khơi dạy được ở trẻ những tình cảm tích cực. Khi sử dụng những câu chuyện, bài thơ, bài hát, giáo viên cần giúp trẻ một cách chính xác, đầy đủ và hình dung một cách rõ nét vẻ đẹp của đối tượng quan sát, đồng thời khơi dạy ở trẻ hoạt động tích cực của các quá trình xúc cảm, tình cảm, tưởng tượng sáng tạo.
Cùng với lời nói của cô và lời nói của trẻ trong hoạt động tạo hình đóng vai trò quan trọng.Trong quá trình quan sát trẻ cần được đàm thoại, trao đổi với nhau, thể hiện xúc cảm suy nghĩ và phải thể hiện được những gì đã làm và sẽ làm.
5.2. Nhóm phương pháp thực hành – ôn luyên :
Đây là hệ thống các hành động, hoạt động của các nhà sư phạm và của trẻ nhằm giúp trẻ củng cố vốn hiểu biết về những đối tượng miêu tả bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo tạo hình.
Phương pháp này bao gồm cả tình huống miêu tả, các bài tập tạo điều kiện cho trẻ lặp lại, nhớ lại và vận dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hoạt động thực tiễn tạo hình.
Các bài tập ôn luyện cần được áp dụng ngay từ các lớp trẻ, những hình thức tổ chức và nội dung thì cần biến đổi phù hợp theo các độ tuổi, phù hợp với hứng thú và vốn hiểu biết của trẻ.
5.3. Nhóm phương pháp tìm tòi – sáng tạo:
Nhóm phương pháp này không chỉ hình thành ở trẻ khả năng tái hiện các hình ảnh mà còn bồi dưỡng ở trẻ khả năng độc lập, xây dựng những hình tượng mới, phát triển ở trẻ khả năng hoạt động sáng tạo.
Nhóm phương pháp tìm tòi sáng tạo gồm có các bài tập sáng tạo yêu cầu trẻ quan sát, tìm kiếm, phát hiện, sửa chữa và tìm ra các phương pháp mới để giải quyết nhiệm vụ tạo hình mới, hình thành và thực hiện ý đồ tạo hình của riêng trẻ.
Bằng phương pháp tìm kiếm từng phần người ta đưa vào quá trình dạy học những yếu tố sơ đăng của dạy học sáng tạo. Để giúp trẻ thực hiện các bài tập tìm kiếm từng phần cần phát triển ở trẻ khả năng tri giác để mở rộng vốn kinh nghiệm và biểu tượng hình tượng đồng thời phát hiện tư duy sáng tạo.
5.4. Nhóm các biện pháp mang tính vui chơi:
Việc sử dụng các biện pháp mang tính chất chơi trong hoạt động tạo hình rất cần được quan tâm, bởi lẽ hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mầm non. Các biện pháp mang tính chất chơi được sử dụng trong phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình không phải với tư cách là một phương pháp riêng mà là các biện pháp tích cực, bổ trợ cho nhóm phương pháp khác nhằm thực hiện nhiệm vụ, mục đích của bộ môn tạo hình. Các biện pháp mang tính chất chơi bao gồm :
Hiệu quả của việc sử dụng đồ chơi trong các tiết học tạo hình hoặc các hình thức tổ chức tạo hình ngoài tiết học phụ thuộc rất nhiều vào cách tạo ra động cơ chơi. Sự xuất hiện của động cơ chơi đòi hỏi ở trẻ không chỉ hiểu biết phong phú về hiện thực xung quanh mà còn cả những tình cảm, xúc cảm thích hợp.
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH XÉ DÁN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON
1 – Khái quát nghiên cứu thực trạng :
1.1. Mục đích điều tra :
Nghiên cứu, tìm kiếm “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển kỹ năng xé dán” từ đó đưa ra một số hình thức, biện pháp giúp trẻ yêu thích cái đẹp, luôn hướng tới cái đẹp, có một số kỹ năng tạo ra những sản phẩm đẹp và biết tôn trọng, giữ gìn những cái đẹp xung quanh mình – Giúp trẻ yêu thích bộ môn tạo hình.
1.2 Đối tượng điều tra
“Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển kỹ năng xé dán.”
1.3 Địa bàn điều tra
1.4 Thời gian điều tra
Từ 1/5/2018 đến 31/8/2018
Chia làm 3 đợt :
1.5 . Nội dung điều tra :
1.6 Phương pháp điều tra
3. Tiêu chí và thang đánh giá
Được tiến hành trong thời gian là 16 tuần
Bảng 1 : Chương trình thực nghiệm
TT
Tiết học tạo hình
Vật liệu sử dụng
Hoạt động tạo hình
1
Nặn các loại hoa quả
Đất màu nặn
Tổ chức cho trẻ quan sát một số loại quả kết hợp với đàm thoại
2
Vẽ vườn hoa
Bút sáp, giấy, màu nước
Dạo chơi quan sát vườn hoa, xem tranh kết hợp với đàm thoại.
3
Xếp dán các con vật
Lá khô, hột đỗ đen
Xem tranh kết hợp với trẻ kết hợp cho trẻ xem các con vật trường nuôi
4
Vẽ theo ý thích
Giấy, bút, sáp màu, màu nước
Xem tranh, chơi vật liệu tự nhiên
5
Nặn con vịt
Đất sét
Xem tranh kết hợp đàm thoại
6
Vẽ tàu hỏa
Que, cát ướt
Xem tranh đàm thoại một số phương tiện giao thông
7
Xé dán thuyền trên biển
Lá khô, cành hoa
Xem tranh, ảnh về thuyền và biển
8
Nặn theo ý thích
Đất sét, cát ướt, áp ong, lá khô, hoa, giấy
Tổ chức tiết học theo nhóm nhỏ, mỗi nhõm 4 -5 , thực hiện nhiệm vụ khác nhau
9
Vẽ ngô nhà của bé
Bảng, sáp ong, que
Xem tranh chơi với vật liệu thiên nhiên, sỏi, hạt, hột
10
Vẽ mùa hè
Đất sét, que, bảng
Dạo chơi ngoài đường phố
11
Xé dán vườn cây ăn quả
Lá khô, cành hoa
Dạo chơi quan sát vườn cây ăn quả, kết hợp xem tranh
12
Vẽ xe tải trên đường
Giấy, bút màu sáp
Xem tranh kết hợp đàm thoại
13
Vẽ bức tranh đẹp tặng cô
Đất séc, cát ướt, que
Tổ chức cho trẻ đi dạo chơi vườn hoa cây cảnh, công viên kết hợp với đàm thoại
14
Xé dán theo ý thích
Lá khô, hoa, sỏi, hột, hạt
Tổ chức tiết học theo nhóm nhỏ, mỗi nhóm 4 – 5 trẻ, thực hiện nhiệm vụ khác nhau
Trong suốt quá trình thực nghiệm chúng tôi kiểm tra mức độ hứng thú của trẻ 2 nhóm qua 3 tiết.
3. Phân tích kết quả nghiên cứu
3.1 Phân tích kết quả điều tra
Tổng số phiếu mà chúng tôi đưa ra cho các giáo viên mầm non Châu Sơn. Kết quả phân tích cho thấy phần lớn giáo viên chưa thấy rõ được vai trò và tác dụng của việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trong tiết học tạo hình nhằm nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình.
Khi hỏi về việc hứng thú của trẻ khi được sử dụng vật liệu thiên nhiên trong giờ học tạo hình thì 100% giáo viên cho rằng trẻ rất có hứng thú và kết quả của sản phẩm nói chung là cao nhưng theo quan sát thực tế thì việc sử dụng vật liệu thiên nhiên ở các trường mầm non còn rất hạn chế trên các tiết học tạo hình.
Dựa trên cơ sở của kết quả điều tra chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Đa số giáo viên chưa đưa vật liệu thiên nhiên vào tiết học tạo hình hoặc có thì cũng chưa khai thác được triệt để tác dụng của loại vật liệu này. Trong các tiết học tạo hình loại vật liệu chiếm ưu thế hiện nay trong các trường mầm non chính là vật liệu công nghiệp. Nhưng loại này cũng không đem lại một kết quả cao. Trong khi đó vật liệu thiên nhiên vừa gần gũi lại vừa mới lạ đối với trẻ nên có thể thu hút sự chú ý, giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết tiếp xúc gần với cái đẹp, mang lại nguồn cảm hứng sáng tạo tham gia tích cực vào hoạt động tạo hình.
Bảng 2 : Các vật liệu, chất liệu được sử dụng trong các tiết học tạo hình ( Theo thống kê phiếu câu hỏi )
TT
Các vật liệu, chất liệu được sử dụng trong các tiết học tạo hình
Số phiếu đánh giá là “ thường sử dụng”
Tỷ lệ %
1
Bột màu vẽ, bút chì, bút sáp, giấy
40
100
2
Đất sét
9
22,5
3
Quả, hột, hạt
10
27,5
4
Lá, que, cành
11
25
5
Cát, sỏi
2
5
6
Hoa
8
20
7
Phế liệu: ( vải vụn, len, bìa, giấy loại, giấy vụn )
13
32,5
8
Đất màu nặn
40
100
Từ những kết quả trên chúng ta cho rằng việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trong tiết học tạo hình chưa được quan tâm đúng mức. Trẻ rất ít được tiếp xúc với loại vật liệu lấy từ thiên nhiên ( cát, sỏi, đất sét, lá khô, cành hoa…).
Để tránh sự lặp đi lặp lại trong việc cho trẻ tiếp xúc với các loại vật liệu – chất liệu thông thường và để nâng cao hứng thú cũng như chất lượng trong hoạt động tạo hình chúng tôi đề nghị đưa vật liệu thiên nhiên vào tiết học tạo hình chứ không chỉ đơn thuần là những vật liệu công nghiệp.
Tóm lại : Trên thực tế hiện nay theo kết quả điều tra ở một số trường mầm non thì việc sử dụng vật liệu thiên nhiên để nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình là ít và chưa được quan tâm.
3.2 Phân tích kết quả quan sát :
Sau quá trình quan sát và ghi chép tình hình hoạt động của cô giáo và trẻ trên các tiết học tạo hình. Chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
Chúng tôi quan sát 5 giờ học tạo hình của trẻ thì duy nhất có một giờ là sử dụng vật liệu thiên nhiên, đó là tiết học “ xé dán vịt con” ( cô giáo sử dụng : lá ).
Hầu hết giáo viên sử dụng vật liệu công nghiệp như một thói quan không thay đổi. Nếu họ đưa vật liệu thiên nhiên và giờ học tạo hình thì giờ học sẽ sôi nổi hơn nhiều.
Phương pháp của giáo viên rất chắc nhưng chưa có nhiều sáng tạo do vật kết quả của hoạt động tạo hình chưa cao sản phẩm tạo hình của trẻ phần lớn có nội dung giống nhau và chỉ giới hạn ở một số đối tượng cụ thể quen thuộc ( nếu 3 – 4 trẻ ngồi cùng bàn với nhau thì nội dung hầu như là giống nhau, màu sắc trong tranh cũng gần giống nhau ).
Cuối tiết học, việc đánh giá nhận xét và thưởng thức sản phẩm.
Ví dụ : Trẻ thường nhận xét tranh của bạn đẹp vì bạn vẽ giống cô và tô màu không bị chườm ra ngoài.
Tóm lại : Thực trạng của việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trong tiết học tạo hình cho trẻ mẫu giáo ở một số trường của Hà nội theo chúng tôi là ít và chưa thường xuyên. Do đó mà trẻ chưa thực sự hứng thú với hoạt động tạo hình, vốn biểu tượng của trẻ về thế giới xung quanh còn quá nghèo nàn, tiết học trở nên khô cứng. Việc này dẫn đến kết quả là không những không hình thành được những tình cảm cũng như thị hiếu thẩm mỹ thực sự làm giảm đi tính tích cực hoạt động và độc lập sáng tạo ở trẻ.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH XÉ DÁN NHẰM PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CHO TRẺ 5-6 TUỔI
1.Cơ sở xây dựng biện pháp
1.1Cơ sở lý luận:
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nghệ thuật, một nội dung quan trọng không thể thiếu được trong chương trình chăm sóc giáo dục mầm non. Cho trẻ làm quen với hoạt động tạo hình nhằm giáo dục tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ đồng thời tạo điều kiện cho trẻ phát huy năng khiếu góp phần phát triển trí tuệ và thể chất cho trẻ. Khi tạo ra sản phẩm tạo hình trẻ tham gia một cách tích cực kết hợp giữa tính tích cực của trí tuệ và thể lực. Đó là sự vận dụng kỹ năng, kỹ xảo, sử dụng dụng cụ và các phương tiện tạo hình, trí nhớ, trớ tưởng tượng sáng tạo thông qua các hoạt động đó phát triển các nhóm cơ bàn tay, ngón tay từ vụng về đến linh hoạt.
đồ chơi trẻ em Thông qua hoạt động tạo hình giúp trẻ phát triển trí tuệ nhận thức được thực hiện thật khách quan bằng hình tượng nghệ thuật, phát triển khả năng tri giác về hình dạng, cấu trúc, kích thước, màu sắc của đồ vật bằng mắt một cách có mục đích rõ ràng. Khi tham gia các hoạt động tạo hình trẻ đã tái tạo được hình tượng nghệ thuật của đồ vật mà chúng tri giác được. Đó chính là những biểu tượng được hình thành trong quá trình trực tiếp đồ vật hiện tượng trong khi dao chơi, tham quan và vui chơi các . Khi quan sát trẻ so sánh hình dáng, kích thước, màu sắc, không gian của đồ vật như vậy hoạt động tạo hình đã góp phần tích cực trong việc hình thành ở trẻ những thao tác tư duy như “Phân tích, so sánh, tông hợp, khái quát, phát triển tư duy trực quan hình tượng và phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo” đồng thời trong quá trình hoạt động tạo hình ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển theo, thông qua hoạt động hoạt động tạo hình giáo dục đạo đức cho trẻ biết yêu quý cái đẹp, cái tốt, phận biệt được cái thiện cái ác. Trong quá trình tạo sản phẩm trẻ được rèn luyện tính kiên trì, bền bỉ làm việc có mục đích được hòa đồng trong tập thể. Từ đó hình thành tính đoàn kết tương trợ giúp đỡ cởi mở thân ái với bạn bè.
Hoạt động tạo hình còn góp phần giáo dục thẩm mĩ cho trẻ Mầm non. Thông qua hoạt động tạo hình để phát triển ở trẻ khả năng cảm thụ thẩm mĩ và bồi dưỡng xúc cảm thẩm mĩ những vẻ đẹp đa dạnh của hình dáng sự phong phú của màu sắc đồ vật thiện nhiên và sự lặp đi lặp lại của các yếu tố tạo hình như sự cân đối đa dạng về cấu trúc, hình dáng về tính truyền cẩm của đường nét. Đã thu hút những hứng thú và gây cho trẻ những cảm xúc tình cảm thẩm mĩ được nảy sinh và trở nên sâu sắc.
Hoạt động tạo hình có ý nghĩa to lớn trong giáo dục lao động cho trẻ mầm non. Hoạt động tạo hình là hoạt động tạo ra sản phẩm, quá trình tại hình là một quá trình lao đông nghệ thuật mang tính sáng tạo, còn góp phần hình thành ở trẻ ý thức làm việc có mục đích có kỹ năng.
Để tạo ra sản phẩm trẻ phải nắm vững các thao tác, kỹ năng tạo hình và kỹ năng sử dụng dụng cụ, vật liệu cùng với tính tích cực độc lập, sáng tạo.
Từ những cơ sở lý luận trên tôi thấy việc cho trẻ làm quen với hoạt động tạo hình là công việc hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ để trở thành những con người phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách. Hiểu rõ được tầm quan trọng của môn tạo hình cho nên tôi đã chọn đề tài giáo dục tạo hình để nghiên cứu và dạy dỗ trẻ.
* Tóm lại: Từ những cơ sở lý luận trên mà tôi thấy việc cho trẻ làm quen với hoạt động tạo hình là công việc hết sức quan trọng trong công tác giáo dục trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện, hài hòa về nhân cách hiểu rõ
được tầm quan trọng đó nên tôi đã chọn đề tài giáo dục tạo hình để nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp tích cực trong việc dạy trẻ.
1.2Cơ sở thực tiễn:
Trẻ em là tương lai, là nền móng của dân tộc là sự phát triển tiến bộ của Quốc gia. Chính vì vậy công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở độ tuổi Mầm non là vô cùng quan trọng đối với từng cá nhân trẻ.
Bản thân tôi qua thực tế giảng dạy bộ môn tạo hình được tiếp cận với phụ huynh học sinh, qua các tiết dạy tôi nhận thấy rằng phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học môn tạo hình của trẻ, học sinh chưa hứng thú với hoạt đông tạo hình. Là một giáo viên Mầm non tôi nhận thấy mình phải có trách nhiệm đi sâu tìm tòi nghiên cứu để có thể tuyên truyền đến các bậc phụ huynh dặc biệt là giúp trẻ cảm nhận được nghệ thuật tạo hình để từ đó trẻ ham thích hăng say vào hoạt động nhằm góp phần tích cức nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và hình thành nhân cách cho trẻ, phát triển trí tưởng tượng óc sáng tạo, bồi dưỡng khả năng quan sát chú ý có chủ định thông qua việc vẽ, xé dán, nặn… trang bị cho trẻ một số kỹ năng cơ bản như: tư thế ngồi, cách cầm bút, cách phân biệt và sử dụng màu sắc, cách chia đất, cách xoay tròn, lăn dài, ấn bẹt, cách dán phết hồ, dán tranh đúng với bố cục hài hòa và hợp lý.
Tóm lại: Thông qua cơ sở lý luận và cơ sở thực tiện trên tôi thấy hoạt động tạo hình giúp trẻ phát triển toàn diện về các mặt “Đức – Trí – Lao – Thể – Mỹ” góp phần hình thành nhân cách cho trẻ là nền tảng vứng chắc cho trẻ chuẩn bị vào lớp 1. Chính vì vậy là giáo viên mầm non yêu nghề mến trẻ nhận thức rõ được mục đích ý nghĩa tầm quan trọng của hoạt động tạo hình đối với trẻ năm học 2012-2013, vừa qua bản thân tôi đã đi sâu vào nghiên cứu tìm tòi học hỏi để có hình thức phương pháp tốt nhất áp dụng vào dạy trẻ.
2 Một số biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình xé dán
2.1 Điều tra :
2.1.1. Nghiên cứu thực trạng :
Dùng phiếu câu hỏi để thăm dò ý kiến của một số giáo viên các trường về:
2.1.2. Quan sát :
2.2. Thực nghiệm
2.2.1. Thực nghiệm khảo sát
Nhóm đối chứng : 25 trẻ
Nhóm thực nghiệm : 25 trẻ
Bài 1 : Vẽ tự do theo ý thích ( vẽ những gì trẻ thích )
Bài 2 : Xé dán lá và hoa.
Qua quá trình khảo sát nhằm tìm hiểu về những biểu tượng của trẻ có phong phú hay không và đánh giá mức độ hứng thú của trẻ trên kết quả bài vẽ và những biểu hiện của trẻ.
2.2.2. Thực nghiệm hình thành :
A. Tổ chức cho trẻ dao chơi và quan sát thiên nhiên.
Cô hướng dẫn cho trẻ tri giác, quan sát vườn hoa chưa nở với nụ hoa chúm chín và vườn hoa đã nở rộ.
Đây là hình thức tạo điều kiện cho trẻ tập tri giác đối tượng hình thành thế giới thẩm mỹ , đó là các tác phẩm nghệ thuật, các bức tranh thiên nhiên về các mùa. Một số tượng về con vật, các loại quả, một số bức tranh về sếp dán có nhiều tranh bằng lá khô, cánh hoa… xếp dán một số hình con vật, cây cối, hoa lá… và cuối cùng cho trẻ quan sát một số tranh vẽ chân dung và vẽ hoạt động của con người.
Chúng tôi đưa vật liệu thiên nhiên vào các tiết học tạo hình từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ : Cho trẻ vẽ trên cát ướt.
c. Tổ chức hoạt động ngoài trời.
Vẽ, xây dựng, chắp ghép, mô hình…
Ban đầu trẻ có thể vẽ, nặn, xếp dán… những gì trẻ thích, sau đó cô cung cấp cho trẻ một số biểu tượng mới ( thông qua quá trình quan sát tự nhiên).
Cô sử dụng vật liệu thiên nhiên xen kẽ vào các hoạt động tạo hình một cách hài hòa.
Ví dụ : Cô tổ chức hoạt động ngoài trời với nhiều nhóm nhỏ.
Nhóm nặn : Cô cho trẻ sử dụng đất sét
Nhóm xếp dán : Dùng vật liệu thiên nhiên là lá khô, hoa, hột, hạt
Nhóm xây dựng : Dùng loại vật liệu là sỏi.
Nhóm vẽ : Vẽ trên cát ướt.
D. Sử dụng các sản phẩm, tạo hình làm từ vật liệu thiên nhiên vào các tiets học khác và hoạt động vui chơi sinh hoạt.
Điều này sẽ kích thích trẻ tham gia vào hoạt động tạo hình tốt hơn. Trẻ sẽ cảm thấy sung sướng và tự hào khi các sản phẩm của mình được sử dụng vào sinh hoạt, hoạt động vui chơi.
E. Tổ chức triển lãm nhỏ.
Tổ chức triển lãm nhỏ cho trẻ về những sản phẩm của trẻ. Điều này giúp ích rất nhiều để trẻ có thể quan sát, tri giác các sản phẩm của mình và của bạn. Từ đó biết tự đánh giá sản phẩm của mình làm ra và của bạn. Buổi triển lãm sẽ tạo cho trẻ những ấn tượng sâu sắc, trẻ cảm thấy mình có một vị trí quan trọng trong buổi triển lãm đó. Điều này giúp trẻ hứng thú, cố gắng tích cực sáng tạo trong hoạt động để tạo ra nhiều sản phẩm đẹp.
2.2.3. Thực nghiệm kiểm chứng.
Được tiến hành sau khi kết thúc quá trình thực nghiệm hình thành.
Bài 1 : Vẽ theo ý thích ( vẽ những gì bé thích )
Bài 2 : Xé dán các con vật mà cháu thích
Sau đợt thực nghiệm chúng tiến hành so sánh sản phẩm của trẻ ở cả hai nhóm.
Chúng tôi xem xét theo nhiều phương diện khác nhau bằng nhiều phương pháp khác nhau.
Bảng 3: Mức độ hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình.
Biểu hiện theo các múc độ Tiêu chuẩn đánh giá hứng thú
Hứng thú cao
Hứng thú bình thường
Hứng thú ít
Không hứng thú
Hành vi
Tập
Vui sướng, vỗ tay reo khi vẽ được chi tiết mới.
trung vào hoạt động quên hết sự có mặt của những người xung quanh
Chăm chú quan sát, đầu ngẩng cao lắng nghe,
mắt mở to, quan sát. Miệng nói về nội dung khi vẽ
Có tập trung vào quan sát thực hiện, nhận xét
Không chú ý, quay sang trêu bạn, nghịch bút, giấy vẽ miễn cưỡng, không thích thú
Lời nói
Trẻ nói to, reo lên những điều trẻ biết. Trẻ rất thích hỏi cô và nói về những đối tượng mà trẻ chú ý khám phá
giải
Trẻ trả lời có
thích, biểu lộ sự suy nghĩ và tình cảm của nó tham gia đánh giá nhận xét sản phẩm
Không nói chuyện. Khi cô giáo hỏi thì trả lời ngắn nhưng có thể giải thích khi được hỏi thêm
Nói chuyện riêng không liên quan đến bài học. Khi cô hỏi thì nói vội không suy nghĩ, khi nhận xét thì im lặng học nói chuyện khác
Thái độ
Vui vẻ hào hứng trong quá trình hoạt động, reo lên khi phát hiện ra những điều mới lạ. Chú ý nhận xét sản phẩm tạo hình
vẻ, có những
Tham gia hoạt động cùng các bạn. Nét mặt vui
câu nói thể hiện sự vui sướng
Chăm chú vào quan sát , thái độ nghiêm túc vâng lời. Vẻ
mặt bình thường
Khong tập trung chú ý trong cả quá trình quan sát, miêu tả và nhận xét các sản phẩm tham gia hoạt động thờ ơ.
Kết quả hoạt động
Có nhiều ý tưởng mới lạ, cùng một thời gian có thể vẽ hai tranh. Nội
tương
Bố cục sản phẩm
đối hợp lý, màu phù hợp với nội dung
Nội dung ít, phong phú, hoàn thành được sản phẩm của
Bố cục tranh chưa cân đối, nội dung thường giống bạn bên cạnh,
dung phong phú
mình
cùng
gian chưa thành phẩm mình.
một thời nhưng hoàn sản của
Để kiểm tra về mức độ hứng thú của trẻ là một việc làm hết sức phức tạp và khó khăn. Nên ngoài thang đánh giá ở trên chúng tôi còn dựa vào thời gian trẻ tập trung chú ý tích cực hoạt động, tốc độ hoạt động của trẻ.
Bảng 4 : Mức độ chú ý tích cực của trẻ trong hoạt động tạo hình ( trên tiết học ).
TT
Thời gian ( phút )
Phân loại
20 – 25
Hứng thú cao
15 – 20
Hứng thú bình thường
10 – 15
ít hứng thú
5 – 10
Không hứng thú
3.2. Đánh giá về nội dung của sản phẩm tạo hình
3.3. Đánh giá về hình thức thể hiện :
3.3.1. Tranh vẽ :
3.3.2. Tranh xé dán :
Dựa vào thang đánh giá khả năng tạo hình và mức độ hứng thú của trẻ, chúng tôi phân tích các bài xếp dán, vẽ nặn của trẻ ( các bài ở thực nghiệm khảo sát, thực nghiệm hình thành và thực hiện kiểm chứng ). Từ đó, chúng tôi so sánh đối chiếu giữa hai nhóm trẻ ( đối chứng và thực nghiệm ) để biết độ khác nhau giữa nhóm trước và sau khi tác động.
3 Thực nghiệm sư phạm
3.1 Nội dung và các phương pháp thực hiện
3.2. Kết quả thực nghiệm :
A. Kết quả thực nghiệm khảo sát
Trước khi tổ chức thực nghiệm tác động chúng tôi tiến hành kiểm tra trình độ tạo hình, việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trong tiết học tạo hình và mức độ hứng thú của trẻ qua hai bài tập đối với cả hai nhóm trẻ ( không sử dụng vật liệu thiên nhiên ).
Bài 1 : Vẽ theo ý thích (vẽ những gì trẻ thích )
Bài 2 : Xé dán lá và hoa.
Để tiến hành tổ chức tiết học này chúng tôi sử dụng các hình thức tổ chức và phương pháp thông thường, theo hướng dẫn của chương trình hiện hành. Chúng tôi ghi được một số kết quả như sau :
1. Bài xé dán theo mẫu ( theo những nội dung trẻ đã được học ).
Vẽ theo ý thích tức là trẻ được tự do lựa chọn và thể hiện ra những đề tài mà chúng thích vẽ, sản phẩm của trẻ làm ra có đạt được chất lượng hay không hoàn toàn phụ thuộc vào hứng thú cũng như vốn biểu tượng, mức độ sáng tạo của trẻ.
Có thể nói nguyên nhân chính dẫn tới sự kém cả về hứng thú và chất lượng tranh vẽ của trẻ do phương pháp truyền đạt và việc không thay đổi các vật liệu – chất liệu trong tiết học tạo hình.
Mức độ hứng thú được thể hiện trên tranh vẽ ở bài này của hai nhóm trẻ trong thực nghiệm khảo sát được thống kê ở bảng sau.
Bảng 5 : Phân loại mức độ hứng thú của trẻ ở hai nhóm trong thực nghiệm khảo sát qua bài vẽ theo ý thích.
Loại % nhóm
Hứng thú cao
Hứng thú bình thường
ít hứng thú
Không hứng thú
Đối chứng
55
30
15
0
Thực nghiệm
60
30
10
0
So sánh mức độ hứng thú của trẻ ở hai nhóm đối chứng và thực nghiệm ta thấy mức độ hứng thú của trẻ tương đối đồng đều.
2. Tiết : Xé dán theo ý thích
Mức độ hứng thú được thể hiện tranh xé dán ở bài này của hai nhóm trẻ trong thực nghiệm khảo sát được thống kê trong bảng sau.
Bảng 6 : Phân loại mức độ hứng thú của trẻ ở cả hai nhóm trong thực nghiệm khảo sát qua bài xé dán lá và hoa.
Loại % nhóm
Hứng thú cao
Hứng thú bình thường
ít hứng thú
Không hứng thú
Đối chứng
60
35
5
0
Thực nghiệm
65
30
5
0
Căn cứ vào số liệu thống kê mức độ hứng thú của trẻ ở biểu hiện và trên tranh vẽ ở hai nhóm trẻ, chúng ta thấy chất lượng của sản phẩm tạo hình và mức độ hứng thú của trẻ là tương đối đồng đều.
Sự chênh lệch về mức độ hứng thú của trẻ là không đáng kể.
B. KẾT QUẢ CỦA THỰC NGHIỆM HÌNH THÀNH :
Chúng tôi tiến hành tác động lên nhóm thực nghệm : Sử dụng vật liệu thiên nhiên để nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình một cách hiệu quả nhất.
Trước khi tổ chức tiết học tạo hình,chúng tôi đã tăng cường, tạo điều kiện cho trẻ tích lũy các biểu tượng bằng cách tổ chức các cuộc tham quan, dạo chơi để trẻ tích cực tìm hiểu môi trường xung quanh, quan sát sự vật hiện tượng phục vụ trực tiếp cho quá trình miêu tả.
Cụ thể trước khi tổ chức tiết học tạo hình, ở đợt 1 chúng tôi tổ chức cho trẻ dạo chơi tham quan trong thiên nhiên : Vườn hoa, vườn cây ăn quả ở trường. Khi đi tham quan cô giáo giới thiệu, hướng dẫn trẻ quan sát. Nhằm khắc sâu ấn tượng hình ảnh trong tâm trí trẻ, giúp trẻ ghi nhớ và tưởng tượng tích cực.
Sau đó chúng tôi cho trẻ quan sát một số tranh ảnh về các loại hoa, quả cung cấp thêm vốn biểu trượng cho trẻ, cũng như giúp trẻ tri giác cách thể hiện các đường nét, màu sắc mà tác giả đã sử dụng trên tác phẩm.
Hệ thống câu hỏi kích thích hoạt động trí tuệ và sự tập tủng của trẻ được đặt ra gây cho trẻ hứng thú.
Đó là các câu hỏi như : Tại sao?
Để làm gì ?
Sau mỗi khoảng thời gian thực nghiệm tác động, chúng tôi cho trẻ ở hai nhóm tham gia những tiết học kiểm tra, đối chiếu sự ảnh hưởng của việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trên tiết học tạo hình tới sự phát triển hứng thú của trẻ.
* Đợt 1 : Lên 4 tiết :
Nặn các loại quả
Tổ chức cho trẻ quan sát một số loại quả kết hợp với đàm thoại có sử dụng trò chơi “ Chiếc túi bí mật”. Trò chơi này đưa vào đầu tiết học. Cô giáo cho các loại quả vào túi lớn, sau đó cho trẻ lên sờ tay vào túi, cô nêu câu đối về quả rồi cho trẻ lấy ra. Sau đó cô cho trẻ tri giác một cách trực tiếp các đặc điểm của quả bằng các câu hỏi đàm thoại.
Nhờ quá trình tri giác lý thú, sinh động trẻ nắm bắt tốt hơn hình ảnh của đối tượng.
Một số sản phẩm của trẻ đã có sự khác biệt sáng tạo như nặn mâm ngũ quả với nhiều loại quả hình dáng khác nhau.
Sang tiết 2 : “ Vẽ vườn hoa”.
Chúng tôi cho trẻ đi chơi tham quan vườn hoa của trường trước khi lên tiết để tăng hứng thú hoạt động và mở rộng vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh. Trong quá trình tham quan cô giáo cùng đàm thoại với trẻ.
Trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên nên hoạt động rất hăng say và vui vẻ. Trong quá trình vẽ có trẻ vừa hát vừa vẽ, thích thú chăm chú vào vẽ. Chất lượng sản phẩm đã khá hơn một chút vì không có trẻ nào chưa hoàn thành bài của mình.
Tiết 3 : “Xé dán các con vật”.
Biện pháp gây hứng thú, chúng tôi đưa vật liệu thiên nhiên : lá khô.
Cô giáo hướng dẫn cho trẻ biết sử dụng vật liệu. Kết quả sản phẩm có khả quan hơn nhưng vì chưa quen với vật liệu mới nên có một số trẻ còn lúng túng và chưa tận dụng được hết tác dụng của lá khô.
Tiết thứ 4 : “ Vẽ theo ý thích “
Trước khi tiến hành tiết học, chúng tôi có cho trẻ chơi trò chơi mà ở đó trẻ được chơi với vật liệu thiên nhiên là chủ yếu. Vì vậy trẻ nhóm thực nghiệm đã mạnh dạn, tích cực vẽ, trẻ say sưa vẽ và vui sướng tìm cách thể hiện đối tượng miêu tả theo trí nhớ thị giác và trí tưởng tượng sáng tạo ở bản thân.
Phân tích và so sánh tranh vẽ và mức độ hứng thú của trẻ ở hai nhóm chúng tôi đã bắt đầu thấy có sự chênh lệch về hứng thú trong hoạt động tạo hình của trẻ.
Biện pháp gây hứng thú : Chúng tôi đưa vật liệu thiên nhiên : Lá khô
Cô giáo hướng dẫn cho trẻ biết sử dụng vật liệu. Kết quả sản phẩm có khả quan hơn nhưng vì chưa quen với vật liệu mới nên có môt số trẻ còn lúng túng và chưa tận dụng được hết tác dụng của lá khô.
Tiết thứ 4 : “ Vẽ theo ý thích”
Ở tiết này, chúng tôi kiểm tra mức độ hứng thú và trình độ tạo hình qua thời gian đầu thực nghiệm tác động.
Trước khi tiến hành tiết học, chúng tôi có cho trẻ chơi trò chơi mà ở đó trẻ được chơi với vật liệu thiên nhiên là chủ yếu. Vì vậy, trẻ nhóm thực nghiệm đã mạnh dạn, tích cực vẽ, trẻ say sưa vẽ và vui sướng tìm cách thể hiện đối tượng miêu tả theo trí nhớ thị giác và trí tưởng tượng sáng tạo ở bản thân.
Phân tích và so sánh tranh vẽ và mức độ hứng thú của trẻ ở hai nhóm chúng tôi đã bắt đầu thấy có sự chênh lệch về hứng thú trong hoạt động tạo hình của trẻ.
Mức độ hứng thú của trẻ ở nhóm thực nghiệm cũng đã được nâng lên một bước so với nhóm đối chứng. Điều này thể hiện qua các hành vi, thái độ rất tích cực của trẻ.
Bảng 7 : Phân loại mức độ hứng thú của hai nhóm trẻ trong thực nghiệm tác động.
Loại % nhóm
Không hứng thú
ít hứng thú
Hứng thú bình thường
Hứng thú cao
Đối chứng
40
35
25
0
Thực nghiệm
30
25
40
5
Nhìn vào bảng phân loại mức độ hứng thú của hai nhóm trẻ người ta thấy mức độ hứng thú của hai nhóm trẻ sau thời gian đầu thực nghiệm tác động đã có sự chênh lệch. Loại không có hứng thú ở nhóm thực nghiệm đã giảm hẳng, loại có hứng thú đã tăng lên nhiều và đã xuất hiện một số ít trẻ có hứng thú cao.Sản phẩm của trẻ không chỉ bó hẹp ở những gì trẻ đã học trên các tiết tạo hình mà còn phong phú hơn nhờ trẻ được tiếp xúc nhiều với thiên nhiên và được sử dụng chính vật liệu thiên nhiên vào bài học của mình.
Bảng 8 : Phân loại mức độ hứng thú của hai nhóm trẻ trong thực nghiệm tác động.
Loại % nhóm
Không hứng thú
ít hứng thú
Hứng thú bình thường
Hứng thú cao
Đối chứng
35
35
25
5
Thực nghiệm
20
25
50
10
Như vậy kết quả của bài xé dán cho thấy sự khác biệt của hứng thú giữa hai nhóm trẻ là khá rõ, chứng tỏ tác dụng tích cực của việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trong tiết học tạo hình đối với trẻ ở nhóm thực nghiệm.
Trẻ ở nhóm thực nghiệm có hứng thú đã tăng lên còn số lượng không có hứng thú ở trẻ thì giảm xuống còn trẻ ở nhóm đối chứng thì số lượng hứng thú còn rất nhiều mà trẻ có hứng thú cao rất ít, chất lượng tranh vẽ của trẻ ở nhóm thực nghiệm có sự tiến bộ rõ nét.
Bảng 9 : Phân loại hứng thú của hai nhóm trẻ trong thực nghiệm tác động qua bài vẽ : “ Vẽ bức tranh đặp tặng cô”
Loại % nhóm
Không hứng thú
ít hứng thú
Hứng thú bình thường
Hứng thú cao
Đối chứng
35
40
20
5
Thực nghiệm
15
10
60
15
Qua quá trình thực nghiệm tác động đánh giác mức độ hứng thú của trẻ, chúng tôi thấy hứng thú của trẻ có sự biến đổi. Trẻ cảm thấy thích thú hơn, hào hứng hơn khi được tiếp xúc với vật liệu thiên nhiên, chính điều đó đã đem lại những kết quả đáng kể trên chính sản phẩm của trẻ làm ra.
C. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM KIỂM CHỨNG .
Sau khi kết thúc quá trình thực nghiệm tác động, chúng tôi tiến hành thực nghiệm kiểm chứng với cả hai nhóm trẻ qua hai bài :
Bài 1 : Vẽ theo ý thích ( vẽ những gì trẻ thích )
Bài 2 : Xé dán những con vật mà cháu thích
(Không sử dụng vật liệu thiên nhiên )
4.1. Với bài vẽ theo ý thích :
Trước khi cho trẻ vẽ cô tiến hành đàm thoại ngắn với trẻ sau đó ở nhóm đối chứng hầu hết trẻ biết bắt tay vào vẽ ngay không suy nghĩ. Trẻ vẽ bất kỳ cái gì trẻ thích, vẽ theo thói quen và các chi tiết được thêm bớt một cách tùy tiện. Hầu hết trẻ đều không đặt tên cho bức tranh của mình trước khi vẽ. Là bài vẽ theo ý thích nên trẻ ở nhóm đối chứng cũng rất hào hứng tuy nhiên sự hào hứng này chỉ là tạm thời, kết thúc trong một thời gian ngắn.
Ví dụ : Cháu Thùy Linh đã vẽ một vườn hoa với những chú chim và bướm bay cũng rất hài hòa.
Như vậy quá trình tác động kích thích hứng thú của trẻ đã có hiệu quả. Đã giúp trẻ có vốn hiểu biết, trẻ hào hứng tự tin và say mê với công việc sáng tạo, tạo nên những hình ảnh mới theo ý thích và theo tưởng tượng riêng của trẻ.
Đánh giá cụ thể về mức độ hứng thú ở bài vẽ theo ý thích này ta thấy:
So với nhóm đối chứng thì nhóm thực nghiệm đã có hứng thú hơn một bậc. Hầu hết trẻ đều tập trung say sưa vẽ một cách rất tự nhiên không bị bó buộc, có nhiều trẻ tập trung vẽ đến mức quên hết sự có mặt của mọi người xung quanh và khi vẽ xong ngắm nhìn bài vẽ của mình một cách thích thú.
Bảng 10 : Phân loại mức độ hứng thú của trẻ ở cả hai nhóm qua bài vẽ theo ý thích.
Loại % nhóm
Không hứng thú
ít hứng thú
Hứng thú bình thường
Hứng thú cao
Đối chứng
35
30
20
15
Thực nghiệm
10
10
40
40
Như vậy qua thống kê ta thấy số trẻ không hứng thú ở nhóm thực nghiệm so với nhóm đối chứng đã giảm rõ rệt, số trẻ có hứng và hứng thú cao đã tăng lên nhiều.
4.2 Với bài xé dán những con vật mà cháu thích.
Trong bài này chúng tôi sử dụng : Giấy màu, giấy trắng
Sự khác nhau giữa hai nhóm thể hiện rõ bởi những biểu hiện của trẻ trong quá trình hoạt động và qua tranh xé dán.
Trong quá trình xé dán, nhóm thực nghiệm rất tập trung chú ý vào bài của mình. Một số trẻ thì hào hứng, sôi nổi, thích thú trao đổi với nhau về ý định của mình, một số trẻ khác thì xé dán rất say sưa vừa hoạt động vừa muốn diễn đạt những điều mình muốn làm, đâu nghiên qua nghiêng lại, môi có lúc mín chặt như muốn dồn hết tâm lực để hoàn thành bài của mình. Do vậy kết quả tranh xé dán rất tốt. Còn nhóm đối chứng thì tranh xé dán của trẻ hết sức mờ nhạt, trẻ không có hứng thú, không thích hoạt động. Nhiều trẻ nói chuyện hay nhìn ra ngoài lơ đãng. Chỉ có một số trẻ là thích thú nhưng chỉ được thời gian đầu còn về sau thì bắt đầu uể oải.
Bảng 11 : Phân loại mức độ hứng thú của trẻ ở hai nhóm qua bài : “Xé dán các con vật mà cháu thích”.
Loại % nhóm
Không hứng thú
ít hứng thú
Hứng thú bình thường
Hứng thú cao
Đối chứng
45
25
20
10
Thực nghiệm
15
20
25
30
Theo thống kê, chúng ta nhận thấy số trẻ không hứng thú ở hai nhóm đối chứng và thực nghiệm có sự chênh lệch rõ ràng. Qua đó có thể nhận xét rằng việc tác động bằng việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trên tiết học tạo hình của nhóm thực nghiệm đã có ảnh hưởng tới mức độ trong hoạt động tạo hình của trẻ.
C: PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận chung:
Quá trình thực nghiệm tác động chúng tôi đã sử dụng vật liệu thiên nhiên vào trong tiết học tạo hình, ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số hình thức HĐTH ngoài tiết học phong phú như :
Sau quá trình tổ chức thực nghiệm tác động, sự thay đổi về chất lượng trong trình độ tạo hình, cũng như mức độ hứng thú của nhóm thực nghiệm cũng được nâng lên. Trẻ tỏ ta thích thú khi được tiếp xúc với vật liệu thiên nhiên , trẻ say sưa tham gia vào hoạt động tạo hình. Với các hình thức trên trẻ đã có những hiểu biết mới mẻ về thế giới xung quanh mà trẻ đã tự tin trong hoạt động, tự mình lựa chọn nội dung miêu tả và tìm cách thể hiện ý đồ của mình trên sản phẩm. Nhờ đó mà chất luộng sản phẩm của trẻ ngày càng được nâng cao, thể hiện rõ qua ba đợt. Đặc biệt nhóm trẻ thực nghiệm rất tích cực hoạt động, hứng thú được tăng lên rõ rệt. Khác hẳn với nhóm đối chứng là không có trẻ ngồi chơi hay làm việc khác.
Trong thực nghiệm khảo sát, sự chênh lệch về mức độ hứng thú ở hai nhóm trẻ đối chứng và thực nghiệm là không đáng kể. Trẻ ở nhóm thực nghiệm có mức độ hứng thú cao hơn do vậy mà sản phẩm phong phú hơn, khả năng tạo hình cũng tiến bộ hơn.
Mặc dù sự tiến bộ của nhóm thực nghiệm chưa nhiều, song nó đã phần nào chứng minh cho việc tổ chức sử dụng vật liệu thiên nhiên trên tiết học với các hình thức hoạt động tạo hình ngoài tiết học đối với việc nâng cao hứng thú cho trẻ trong hoat động tạo hình là hợp lý và đúng đắn. Điều này khẳng định vị trí của việc cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, sử dụng vật liệu thiên nhiên vào tiết học tạo hình trong quá trình tác động vào nhóm thực nghiệm.
Có thể khẳng định biện pháp này là phù hợp với trình độ lứa tuổi của trẻ mẫu giáo nhỡ, có thể triển khai áp dụng ở quy mô lớn hơn. Đó không chỉ đơn thuần là kiến nghị mà cũng là niềm mong ước của chúng tôi.
2. Kiến nghị sư phạm:
D: TÀI LIỆU THAM KHẢO:
E: PHỤ LỤC:
A: PHẦN MỞ ĐẦU: ……………………………………………..
1. Lý do chọn đề tài:
…………………………………………………………
2. Mục đích nghiên cứu:
…………………………………………………….
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
4. Giả thuyết khoa học:
…………………………………………
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
6. Phạm vi nghiên cứu:
7. Các phương pháp ngiên cứu:
………………………………….
…………………
……………………………
8. Kế hoạch nghiên cứu:
…………………………………………..
B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: …………………………………
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
……………
2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu:
…………
3. Một số đặc điểm đặc trưng của hoạt động tạo hình xé dán sáng tạo ở trẻ 5-6 tuổi:
…………………………………………..
……
tạo:
4 . Nội dung nghiên cứu :
…………………………………………………….
……………
5. Các phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình xé dán nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo:
…………………………………….
…………………………
…………………………
…………………………
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH XÉ DÁN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1 Mục đích điều tra:
…………………………………………………
…………………………………………………
……………………………………………………
………………………………………………….
…………………………………………………..
2. Tiêu chí và thang đánh giá:
3. Phân tích kết quả nghiên cứu:
………………………………
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH XÉ DÁN NHẰM PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CHO TRẺ 5-6 TUỔI
…………………………………………
………………
……………………
…………………………………………….
C: PHẦN KẾT LUẬN
……………………………………………….
……………………………………………
D: TÀI LIỆU THAM KHẢO:
……………………………
E: PHỤ LỤC:
…………………………………………….