Danh sách các nước Cộng hòa Tự trị của Liên bang Nga – Wikipedia tiếng Việt

Liên bang Nga được phân thành 85 chủ thể liên bang ( đơn vị chức năng hợp hiến ), 22 trong số đó là nước cộng hòa. Các nước cộng hòa đại diện thay mặt cho những khu vực không phải của dân tộc bản địa Nga. Các nhóm dân tộc bản địa địa phương của một nước cộng hoà tạo thành tên riêng của nước cộng hòa được coi là ” dân tộc bản địa đại diện thay mặt “. Trải qua nhiều thập kỷ, do có nhiều cuộc di cư nội bộ bên trong nước Nga ( một số ít trường hợp là thế kỷ ), những dân tộc bản địa đại diện thay mặt đó không nhất thiết chiếm hầu hết trong thành phần dân số của một nước cộng hòa .

Địa vị trong hiến pháp[sửa|sửa mã nguồn]

Các nước cộng hòa phân biệt với những đối tượng người tiêu dùng khác của liên bang chủ thể liên bang ở chỗ là họ có quyền thiết lập ngôn từ chính thức ( Điều 68 của Hiến pháp Nga ) và có hiến pháp riêng của mình. Các đối tượng người dùng khác của liên bang như vùng chủ quyền lãnh thổ và tỉnh không có quyền này. Người đứng đầu của hầu hết nước cộng hòa có chức vụ là tổng thống .Mức độ tự trị trong thực tiễn được trao cho những đơn vị chức năng hành chính luôn biến hóa nhưng nhìn chung khá là to lớn. Quốc hội của những nước cộng hòa thường phát hành những luật có lợi thế hơn so với hiến pháp liên bang và người đứng đầu những nước cộng hòa có xu thế rất quyền lực tối cao. Tuy nhiên, quyền tự trị này giảm thiểu đi đáng kể dưới thời Vladimir Vladimirovich Putin, đương kim Tổng thống Liên bang Nga, người đã cố gắng nỗ lực thiết lập quyền lực tối cao tối cao của hiến pháp liên bang .

Việc thiết lập bảy “vùng liên bang” rộng lớn trên các khu vực và các nước cộng hòa của Nga với các thống đốc do tổng thống bổ nhiệm để giám sát mọi hoạt động của các nước cộng hòa đã làm cho việc tuân thủ luật pháp và hiến pháp tại các nước cộng hòa trở nên vững mạnh hơn. Hơn nữa, Putin đã củng cố vị trí cơ quan lập pháp của các nước cộng hòa và làm suy yếu cơ quan hành pháp. Ngày nay người đứng đầu cơ quan hành pháp của các nước cộng hòa do Tổng thống Nga bổ nhiệm, nhưng tổng thống của nước cộng hòa phải được quốc hội bổ nhiệm.

Mặc dù có một số xu hướng ly khai ở hầu hết các nước cộng hòa nhưng nhìn chung không mạnh mẽ lắm. Tuy nhiên, đã có những hỗ trợ đáng kể cho việc ly khai ở Tatars, Bashkirs, Yakuts và Chechnya sau khi Liên Xô sụp đổ mà hậu quả là chiến tranh ở Chechnya. Tuy nhiên mong muốn ly khai ở các nước cộng hòa là rất phức tạp do các dân tộc sống trong nước cộng hòa ngoài dân tộc đại diện (Tatarstan, Bashkortostan, Sakha). (Hậu quả của Chiến tranh Chechen là có rất ít người không phải dân tộc Chechen sống ở Chechnya ngày nay).

Các ” nước cộng hòa tự trị ” và những ” tỉnh tự trị ” cũ[sửa|sửa mã nguồn]

Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga nằm trong Liên bang Xô viết bao gồm ba loại đơn vị hợp hiến dân tộc, theo thứ tự mức độ “tự trị” giảm dần là: các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị (gọi tắt là cộng hòa tự trị), tỉnh tự trị và khu tự trị. Sau khi Liên Xô tan rã, mỗi “nước cộng hòa tự trị” được thay bởi một nước cộng hòa cùng tên hoặc như trường hợp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tự trị Chechen-Ingush thành hai nước cộng hòa Chechnya và Ingushetia. Một số “tỉnh tự trị” như Adygea, Altai, Karachay-Cherkessia, Khakassia cũng trở thành nước cộng hòa.

Cách diễn đạt ” nước cộng hòa tự trị ” nhiều lúc vẫn được dùng để chỉ những nước cộng hoà thuộc Nga. Mặc dù những chủ thể này có quyền tự trị và là những nước cộng hoà, nhưng việc sử dụng khái niệm nói trên là không đúng về mặt kỹ thuật, vì theo Hiến pháp Nga năm 1993 và Hiến pháp của chính những chủ thể đó thì tên chính thức của chúng đơn thuần là ” nước cộng hoà ” mà không phải là ” nước cộng hòa tự trị ” .

Danh sách những nước cộng hòa thuộc Nga[sửa|sửa mã nguồn]