[Lịch sử Trung Quốc] Các vị vua trong lịch sử phong kiến Trung Hoa

 Khi nhắc đến Trung Quốc(giản thể:中, bính âm: Zhōngguó), hay Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (giản thể: 中华人民共和, bính âm: Zhōnghuá Rénmín Gònghéguó), hoặc Trung Quốc Đại Lục – một quốc gia nằm ở khu vực Đông Á, người ta thường nghĩ ngay đến nền văn hóa đa dạng, hấp dẫn của quốc gia này.

               

Với diện tích quy hoạnh 9.596.961 km² đã khiến cho Trung Quốc trở thành vương quốc có diện tích quy hoạnh lục địa lớn thứ thứ tư trên quốc tế. Cảnh quan, hệ sinh thái vô cùng lớn, đa dạng và phong phú và phong phú, từ thảo nguyên xanh, đất rừng, hay cả những sa mạc Gobi và Taklamakan dọc theo địa lý từ phía Bắc khô hạn đến những khu rừng cận nhiệt đới ở phía Nam có nhiệt độ nhiều hơn. Ranh giới Trung Quốc với những khu vực Nam và Trung Á chính là dãy núi Himalaya, Karakoram, Pamir và Thiên Sơn .

                       

长江 / Chángjiāng / : Trường Giang 黄河 / Huánghé / Hoàng Hà
Hai con sông Trường Giang và Hoàng Hà của Trung Quốc lần lượt là hai con sông dài thứ ba và thứ sáu trên quốc tế, cả hai con sông đều được bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng và chảy theo hướng về vùng biển phía đông, nơi mà có dân cư đông đúc. Nền văn minh của quốc gia bắt nguồn từ những khu vực thung lũng dọc theo hai con sông này. Mặc dù trong thời kì đồ đá mới, nhưng cái nôi của nền văn hóa truyền thống, văn minh nước này vẫn giữ được cốt cách niềm tin từ khu vực trung và hạ lưu của con sông Hoàng Hà và ngày qua ngày được tăng trưởng và duy trì cho đến tận thời đại thời nay. Đi liền với hàng nghìn năm sống sót và tăng trưởng, đây chính là một trong những nền văn minh cổ đại, truyền kiếp và vĩ đại bậc nhất quốc tế. Có rất nhiều thông tin khác nhau ghi chép về những niên đại của cổ xưa nhất của Trung Quốc nhưng theo thông tin từ những văn bản ghi chép lại gần đây nhất, lịch sử Trung Quốc được tìm thấy có niên cổ đại nhất là từ thời nhà Thương ( khoảng chừng 1700 – 1046 TCN ) và văn hóa truyền thống, văn học, phong tục, chính trị và cả triết học thì tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ nhất vào thời nhà Chu. Để hiểu rõ hơn về đế chế, cỗ máy chính trị của vương quốc này, tất cả chúng ta cùng tiengtrung.vn tìm hiểu và khám phá về những vị cua trung hoa nổi tiếng của Trung Quốc để hiểu thêm về công lao của những vị hoàng đế đã khai thiên lập địa và thiết kế xây dựng nền văn hóa truyền thống Nước Trung Hoa nhé !

  1. Minh Thái Tổ明太祖 /míngtài zǔ/

Minh Thái Tổ tên thật là Chu Nguyên Chương ( giản thể : 朱元璋, bính âm : Zhūyuánzhāng ), sinh ngày 21 tháng 10 năm 1326, mất ngày 24 tháng 6 năm 1398. Thuở nhỏ tên của ông là Trùng Bát重八 / zhòng bā /, về sau đổi thành Hưng Tông興宗 / xìngzōng /, tên chữ của ông là Quốc Thụy國瑞 / guó ruì /. Ông còn những tên gọi khác như Võ Hồng Đế洪武帝 / hóng wǔdì /, Hồng Võ Quân洪武君 / hóngwǔ jūn / hay Chu Hồng Võ朱洪武 / zhū hóngwǔ /. Minh Thái Tổ quản lý từ năm 1368 đến 1398, ông chính là vị hoàng đế đã khai quốc vương triều nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Với những góp phần to lớn suốt những năm tháng trị vì ông được ca tụng là một trong những nhà vua vĩ đại nhất của Trung Quốc. Các nhà sử gia gọi thời kì quản lý của ông là Hồng Võ Chi Trị洪武之治 / hóngwǔ zhī zhì / .
        
Chu Nguyên Chương đã từng chỉ huy một lực lượng lớn chinh phục Trung Quốc và chấm hết thời đại của nhà Nguyên, buộc người Mông Cổ phải rút vào thảo nguyên ở khu vực Trung Á vào giữ thế kỉ XIV. Mặc dù lúc bấy giờ dịch bệnh và nạn đói hoành hành, nhưng ông vẫn chỉ huy những cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi. Ông công bố thiên mệnh thuộc về ông và khai lập ra đế chế nhà Minh vào năm 1368 khi chiếm được đại đô của nhà Nguyên. Suốt cuộc sống của mình, Chu Nguyên Chương đặt niềm tin rất lớn vào mái ấm gia đình, ông phân đất đai cho con trai của ông thành những phiên quốc trấn thủ những khu vực đầm lầy phí bắc và thung lũng sông Trường Giang. Đích Trưởng Tử – thái tử Chu Tiêu và đích trưởng tôn Chu Hùng Anh của ông mất sớm, những việc này đã khiến ông chọn đích tôn Chu Doãn Văn là chính người kế vị cùng với việc ban bố Hoàng Minh Tô Huấn. Nhưng những kế hoạch này của ông đều thất bại khi mà Chu Doãn Văn đưa ra quyết định hành động ra tay với chính người chú, chính vì điều này là nguyên do chính dẫn đến cuộc làm mưa làm gió thành công xuất sắc của Yên Vương Chu Đệ. Ông đặt niên hiệu là Hồng Võ洪武 / hóngwǔ /. Khi băng hà, miếu hiệu của ông được truy tôn là Thái Tổ太祖 / tài zǔ / và thụy hiệu của ông chính là Cao hoàng đế高皇帝 / gāo huángdì /. Ông được an táng ở Hiếu Lăng, Nam Kinh .

2. Tần Thủy Hoàng秦始皇 / qínshǐhuáng /

Từ năm 221 TCN là thời kì mà vị hoàng đế Tần Thủy Hoàng quản lý, thống nhất quốc gia trở thành 1 vương quốc vững mạnh, ghi lại sự khởi đầu của một đế quốc hào hùng – Trung Quốc .

       

Cũng chính thời kìa này, vị vua Tần Thủy Hoàng đã khai công kiến thiết xây dựng khu công trình kiến trúc Vạn Lý Trường Thành万里长城Wànlĭ Chángchéng ( nghĩa đen : thành dài vạn lý, gọi tắt chính là : Trường thành ). Công trình này gồm có nhiều thành lũy lê dài hàng nghìn cây số từ Đông sang Tây, với mục tiêu chính để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Bên cạnh đó, việc kiến thiết xây dựng vạn lý tường thành còn để trấn áp biên giới, áp đặt thuế khi giao thương mua bán quốc tế so với những mặt hàng hóa luân chuyển theo con đường tơ lụa, đặt ra những lao lý, chính sách để khuyến khích, ngày càng tăng thương mại và trấn áp xuất nhập cảnh vào vương quốc này. Đặc điểm phòng thủ của khu công trình này đã được tăng cường, tăng cường bằng việc thiết kế xây dựng những tháp canh, chòi gác, doang trại, trạm đóng quân, … Khói và lửa được sử dụng là một phương tiện đi lại hữu dụng để báo khi có giặc. Đây cũng được coi là một hiên chạy của giao thông vận tải vận tải đường bộ và giao thương mua bán quốc tế .

3.Võ Tắc Thiên

Võ Tắc Thiên武則天/wǔzétiān/, chúng ta có thể gọi là Vũ Tắc Thiên, tên thật của bà là Võ Chiếu, sinh ngày 17 tháng 2 năm 624, mất ngày 16 tháng 12 năm 705. Bà thường được gọi là Võ Hậu武后Wǔhòu hoặc Thiên Hậu武后/tiānhòu/ là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái Tông Lý thế Dân. Võ Tắc Thiên là nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất trong lịch sử phong kiến Trung Hoa, bà đã để lại cho nền văn hóa Trung Hoa nhiều tranh luận về công – tội giữa các nhà sử học.  Bà đã từng trải qua các vị trí tài nhân, chiêu nghi, hoàng nghi, hoàng hậu, hoàng thái hậu, hoàng đế và cả thái thượng hoàng. Nhưng trước khi qua đời bà đã quay lại với vị trí hoàng hậu của nhà Đường. Bà là mẹ của 2 vị Hoàng đế kế tiếp, Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán. Triều đại mà bà sáng lập tồn tại từ năm 690 đến năm 705. Do đó, Võ Tắc Thiên trở thành Nữ hoàng duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc. Trong quá trình 15 năm cai trị với tôn hiệu Thánh Thần Hoàng đế聖神皇帝/shèng shén huángdì/, Võ Tắc Thiên mở rộng lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, kết thúc cuộc chinh phục bán đảo Triều Tiên. Tại thời điểm đó, trong nước Phật giáo được phát triển nở rộ và kinh tế – xã hội được khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, duy trì sự ổn định trong nước. Tuy nhiên, tư tưởng nam tôn nữ ti đã ăn sâu trong lòng  xã hội phong kiến, bên cạnh đó sự hà khắc trong cách cai trị khiến đông đảo cựu dân nhà Đường không phục. Cuối đời, vì sủng ái hai anh em nhà họ Trương : Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi mà bà đã dung túng cho hai người họ chuyên quyền, khiến rất nhiều quân dân quần thần bất bình .Cho đến tận năm 705, tể tướng đương triều là Trương Giản Chi cùng các đại thần phát động binh biến, ép Thiên Hậu thoái ngôi của mình  và đưa Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ 2. Bà đã bị giam lỏng ở Thương Dương cung tại Lạc Dương cho đến khi qua đời không lâu sau đó ở tuổi thọ 82. Bà cũng là 1 trong 3 vị hoàng đế Trung Hóa có tuổi thọ cao nhất (trên 80 tuổi) .Bên cạnh việc bà biết cách trọng dụng nhân tài và có một số thành công trong việc cai trị thì bà cũng đã rất tàn nhẫn, giết hại nhiều người thân, hà khắc làm cho dân chúng khiếp sợ, việc dâm loạn khiến cho cả thiên hạ chê cười . 

4.Hán Vũ Đế漢武帝/ hàn wǔdì/

 

Hán Vũ Đế, hay còn được phiên thành Hán Võ Đế , tên thât của ông là劉徹/liúchè/, ông sinh ngày 31 tháng 7 năm 156 TCN mất năm 29 tháng 3 băn 87 TCN. Theo tiểu sử ghi chép lại, ông là con trai thứ 11 của Hán Cảnh Đế, vua thứ 6 của triều đại nhà Hán. Đây là vị Hoàng đế sáng lập triều đại Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị Hoàng đế thứ 16 của nhà Hán. Ông trị vì từ ngày 5 tháng 8 năm 25 đến khi mất, tổng cộng 32 năm.Vốn xuất thân từ dòng dõi xa của nhà Tây Hán và từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại chính quyền Vương Mãng, Hán Quang Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền mới của Lục Lâm, đánh bại các lực lượng cát cứ và thống nhất quốc gia, mở ra thời kỳ thịnh trị của Trung Quốc sau nhiều năm biến động, được gọi là Quang Vũ trung hưng (光武中興). Trong lịch sử Trung Quốc, Quang Vũ Đế Lưu Tú được đánh giá cao với tài cầm binh, sau khi xưng Đế đã đích thân dẫn binh thảo phạt tứ phương, thu phục nhiều quân phiệt và củng cố chính quyền nhà Hán sau một thời gian bị gián đoạn. Ông trọng hiền đãi sĩ, khoan hậu trọng tín, nên được chư hầu Đậu Dung (竇融), tướng Mã Viện đều quy phục. Khác với tổ tiên Hán Cao Tổ Lưu Bang hay các vị Hoàng đế khai quốc về sau như Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, ông không sát hại hiền thần theo mình như họ, mà thiện đãi để họ tự nguyện phục vụ mình. Trong lịch sử Trung Hoa, ông được nhận định là một hoàng đế tài giỏi của triều đại nhà Hán, ông đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc xây dựng và phát triển nước nhà, đặt nền móng phát triển thương quốc tế. Dưới thời cai trị của ông, triều đại nhà Hán đã phát triển mạnh mẽ trên cả phương diện chính trị và quân đội, ông đã lãnh đạo quân dân tiến hành các cuộc xâm lược vào Vệ Mãn Triều Tiên, Dạ Lang, Hung Nô, Nam Việt, Mân Việt, Đông Âu. Ông cũng đã kết thân và thiết lập quan hệ với các nước láng giềng và lân cận ở khu vực phía tây, mở rộng lãnh thổ phía đông, nam và bắc. Mặc dù sùng bái đạo giáo nhưng ông vẫn sử dụng Nho Giáo làm tư tưởng trị nước. Cùng với Tần Thủy Hoàng thì Hán Vũ Đế cũng được sử sách ca ngợi là vị hoàng đế vĩ đại bậc nhất trong thời kì đầu của |Đế quốc Trung Hoa, được xưng tụng bằng cụm từ Tần Hoàng Hán Vũ (秦皇漢武). Cho đến tận cuối đời, Hán Vũ đã tiêu tốn rất nhiều vàng bạc châu báu để đi tìm thuốc trường sinh vì ông tin vào thuật trường sinh bất lão nhưng cuối cùng vẫn băng hà ở tuổi 69 .

    

5. Tống Thái Tổ 宋太祖 / sòngtàizǔ /

Tống Thái Tổ tên thật là Triệu Khuông Dân趙匡胤 / zhàokuāngyìn /, tự là Nguyên Lãng元朗 / yuán lǎng /, ông sinh ngày 21 tháng 3 năm 927 mất ngày 14 tháng 11 năm 976. Ông chính là vị Hoàng Đế đã xây dựng nên triều đại nhà Tống trong lịch sử của Trung Quốc, trị vì 16 năm từ năm 960 đến năm 976. Tiểu sử của ông được ghi chép lại khá cụ thể tại Tống Sử. Tống Thái Tổ được những nhà sử gia nhìn nhận rất cao, ngang hàng với những bậc đại đế xưa như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế. Trong thời hạn trị vì quốc gia, ông đã thiết lập và sáp nhập Nam Đường, Hậu Thục, Nam HÁn và Nam Kinh vào map nhà Tống, chỉ còn lại Bắc Hán, cũng trong quy trình trị vì ông đã đứng lên chấm hết thời kì loạn lạc cát cứ Ngũ Đại Thập Quốc của những tiết độ sứ suốt mấy chục năm từ thời nhà Đường xưa kia. Ông đưa ra những chủ trương thực thi cải cách hành chính tập trung chuyên sâu binh quyền, giảm sưu thuế, trả lại ruộng đất, đất đai cho những người dân nghèo, mở khoa cử tuyển nhân tài từ những người đọc sách những tầng lớp trung lưu. Tất cả những việc làm, kế hoạch của ông đã giúp không thay đổi đế chế nhà Tống và trở thành vương triều thống trị Trung Quốc hơn 300 năm. Vào năm 960, vị hoàng đế này vạch ra kế hoạch Binh biến Trần Kiều ( 陈桥 ) đoạt được chính quyền sở tại nhà Hậu Chu, lấy đất Tống Châu nơi mà Triệu Khuông Dẫn được phong làm Quy Đức quân Tiết độ sứ để làm quốc hiệu, lập nên vương triều Tống. Ông cũng chính là nhà vua duy nhất có thân phận xuất thân võ tướng, toàn bộ những nhà vua sau của nhà Tống đều là thư sinh. Bên cạnh đó, Triệu Khuông Dân được bết đến là một nhà vua nổi tiếng nhân từ trong lịch sử, không sát hại những công thần, triều thần như nhà vua khác : Lưu Bang hay Chu Nguyên Chương. Năm 976, Tông Thái Tổ giật mình qua đời, theo một số ít sử sách ghi lại về nguyên do cái chết của ông, có nguồn nói rằng ông bị bệnh, ngôi vua được truyền lại cho người em của mình Triệu Quang Nghĩa ( chính là Tống Thái Tông ). Chính vì điều này khiến nhiều người đương thời cũng như hậu thế hoài nghi rằng chính em đã của ông đã sát hại ông và những côn ông để chiếm đoạt ngôi vị. Nghi án này đến nay vẫn là một ẩn số chưa có giải thuật .
  

6. Khang Hi Đế康熙帝 / Kāngxī dì /

Vị vua có nên hiệu là Khang Hi, thường được gọi là Khang Hi Đế có tên là Thanh Thánh Tổ清聖祖 / qīng shèngzǔ /, hãn hiệu của ông là Ân Hách La Mộc Cổ Lãng Hãn恩赫阿木古朗汗 / Ēn hè āmù gǔ lǎng hàn /, tây tạng tôn vị Văn Thù Hoàng Đế文殊皇帝 / Wénshū huángdì /, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1654 mất ngày 20 tháng 12 năm 1722, ông là vị vua thứ tư của nhà Thanh và ông cũng chính là vị hoàng đế thứ hai của nhà Thanh trị vì Nước Trung Hoa, ông trị vì quốc gia trong 61 năm từ 1661 đến 1722. Trong lịch truyền kiếp của triều đại nhà Thanh, Khang Hi Đế là một Hoàng Đế tài ba lỗi lạc bậc nhất, chính ông đã thiết lập sự thịnh trị dài trên 130 năm của triều đại nhà Thanh sau một loại những cuộc cuộc chiến tranh với những chủ trương tích cực của mình đã giúp cho dòng họ Ái Tân Giác La giữ vững vị trí Hoàng Đế ở Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên. Được nhìn nhận là một trong những vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Nước Trung Hoa, ông được xưng tụng là Khang Hi Đại Đế. Trong thời hạn trị vì quốc gia, Đế Quốc nhà Thanh đã triển khai xong thống nhất và trấn áp hàng loạt chủ quyền lãnh thổ Nước Trung Hoa, Mãn Châu, Đài Loan và nhiều phần vùng Cận Đông nước Nga, bảo lãnh cho Mông Cổ và Triều Tiên .
Khang Hi vốn là con trai của Thuận Trị Hoàng đế và Hiếu Hiền Hoàng hậu. Mẹ của ông họ Đông Thị là con gái của một công thần. Cuộc hôn nhân gia đình của Hoàng Đế và Đông Thị. Tuy nhiên, bà nội của Khang Hi là Hiếu Trang Hoàng thái hậu lại cực kỳ cưng chiều cháu. Khi Huyền Diệp lên 8 tuổi, Thuận Trị Hoàng đế qua đời. Ông được bà nội nuôi nấng và sắp xếp để thừa kế ngai vàng. Ông là hiệu quả của một cuộc hôn nhân gia đình gượng ép, Khang Hi Đại Đế bị người cha ghẻ lạnh nhưng ông lại bà nội của mình nuoi nấng, dạy dỗ và cưng chiều hết mực. Ông đã lên ngôi vua khi chỉ lên 8 tuổi và ông đã trở thành vị vua hiếm có của lịch sử Trung Quốc. Ông quản lý toàn cõi Trung Quốc từ năm 1622 cho đến tận khi qua đời. Được nhìn nhận là một vị minh quân hiếm có, biết cách chiêu mộ nhân tài, luôn luôn lấy dân làm gốc và ông có tấm lòng bao dung, độ lượng trong lịch sử Nước Trung Hoa. Hết lòng vì dân quân của mình, ông tiếp tục cải trang làm dân thường để đi vi hành, thị sát, khám phá về đời sống của những người dân trong xã hội. Do đó, người Trung Quốc hay có câu nói của miệng “ Khang Hi vi hành ” để nói về vị vua này. Câu chuyện vi hành đã là nguồn cảm hứng cho bộ phim nỏi tiếng một thời Khang Hi Vi Hành .

Vào cuối thời kì, con trai lớn của ông là Dận Nhưng liên tiếp gặp phải vấn đề về nhân cách, hai lần bị phế ngôi Thái tử cùng 1 lần phục vị .Đây cũng chính là lý do khiến cho các hoàng tử khác bước chân vào cuộc tranh đấu đoạt chức Thái tử, tranh giành kế Hoàng vị. Cuộc tranh đấu này được sử sách gọi là Cửu Tử Đoạt Đích九子夺嫡/jiǔ zǐ duó dí/, và phần thắng đã thuộc về con trai thứ tư của Khang Hi, Ung Chính Đế. Tuy nhiên, việc Khang Hi đế băng hà tại Sướng Xuân Viên và việc Ung Chính Đế kế thừa di mệnh lên ngôi nay vẫn còn là dấu hỏi lớn, gây tranh cãi rằng liệu có phải là Khang Hi Đế truyền ngôi lại cho Ung Chính hay vị thái tử này đã tự ý sử di chúc để đoạt ngội .Tuy nhiên, sau khi lên ngôi, Ung Chính Đế đã chứng minh mình là một hoàng đế tài ba, siêng năng. Ung Chính Đế đã duy trì sự cường thịnh của Đế quốc Đại Thanh .  Khang Hi Đế là vị vua có thời gian cai trị ngai vàng lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc (61 năm ) và ông cũng chính là một trong những nhà vua trị vị đất nước trong lịch sử của thế giới. Đế chế của Khang Hi Đai Đế được xem là trang mở đầu của Khang Càn thịnh thế; 康乾盛世/kāng gān shèngshì/ có thời gian hơn 100 năm. Càn Long Đế là cháu nội của ông đã rất ngưỡng mộ ông, Càn Long Đế đã thực hiện việc thiện nhượng vì không dám vượt quá số năm trị vì của ông .

            

7. Minh thành Tổ 明成祖 / míng chéngzǔ /

Minh Thành Tổ, bắt đầu gọi ông là Minh Thái Tông明太宗 / míng tàizōng / ông sinh ngày 2 tháng 5 năm 1359 mất ngày 12 tháng 8 băn 1424, ông là vị hoàng đế thứ 3 của nhà Minh, ông trị vì quốc gia 22 năm từ 1402 đến 1424. Ông chỉ dùng 1 tên niên hiệu Vĩnh Lạc永樂 / yǒnglè /, nên sử gia còn gọi ông là Vĩnh Lạc Đế永樂帝 / yǒnglè dì /. Được coi là vị hoàng đế kiệt xuất nhất trong lịch sử của Triều đại nhà Minh và là một trong những vị hoàng đế kiệt xuất nhất lịch sử Nước Trung Hoa. Triều đại nhà Minh ohast triển đỉnh điểm về quyền lực tối cao nhờ thời kì quản lý của ông, thời kì này được ca ngoiwjc gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế永樂盛世 / yǒnglè shèngshì /. Minh Thành Tổ giát sát việc giáo dục những hoàng tử rất khắt khe, phong vương cho những hoàng tử, cho nắm giữ những binh quyền những phiên tại đất phong và đều có đội quân riêng để tự vệ. Trong suốt niên hiệu Hồng Vũ, lực lượng phiên vương đã làm rất tốt vai trò đại diện thay mặt vua cha thống trị những phiên vì ông không tin cậy những ngoại thần, và ông đã làm rất tốt trong việc bảo vệ biên cương rất tốt chống khỏi sự xâm lược của những thế lực Mông Cổ. Năm 1370, ông được phpng làm Yên Vương 燕王 / yàn wáng / và đóng đô ở Bắc Bình ( nay là Bắc Kinh ). Sau một chuỗi những thành công xuất sắc trong chiến dịch chống quân Mông Cổ, ông mở màn xây sựng và xủng cố uy lực của mình ở phía Bắc và tàn phá, loại trừ những đối thủ cạnh tranh tiêu biểu vượt trội như đại tướng Lam Ngọc. Ông đã mở màn triều đại của mình bằng việc hợp pháp hóa việc lên ngôi và viêc xóa bỏ thời hạn trị vì của người cháu. Sau đó ông thiêu hủy và sửa đổi những tài liệu có tương quan, dính líu đến tuổi thơ và cuộc làm mưa làm gió của chính mình .

8. Đường Thái Tông唐太宗 / táng tàizōng /

Đường Thái Tông có niên hiệu duy nhất là Trinh Quán貞觀 / zhēnguàn / trị vì Trung Quốc từ năm 626 đến 649, ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông sinh ngày 23 tháng 1 năm 599 mất ngày 10 tháng 7 năm 649. Vào năm 617, Lý Thế Dân khuyên người cha của mình là Lý Uyên nên khởi binh phản lại nhà Tùy, ông đã có công đánh dẹp những lộ anh hùng trung thiên hạ, đem lại cơ nghiệp cho triều đại nhà Đường. Do vậy, ông được coi là Khai Quốc Hoàng Đế đồng sáng lập Nhà Đường cùng với Đường Cao Tổ. Ông được người xưa coi là nhà vua vĩ đại nhất trong những bậc đại đế của lịch sử Trung Quốc thời Nhà Đường. Dưới triều đại thời Thái Tông tăng trưởng kinh tế tài chính, hùng mạnh về quân sự chiến lược đã trở thành quốc gia to lớn nhất và hufg mạnh nhất trên quốc tế lúc bấy giờ. Triều đại nhà Dường đã bao quát đất gồm hầu hết lãng thổ khu vực Trungh Quốc ngày này, một phần Nước Ta và một hầu hết Trung Á.Ông còn được biết đến là một vị hoàng đế tài ba, người đã thiết lập sự cường thịnh, phồn hoa của Đại Cường. Việc lên ngôi của ông rất nổi tiếng qua Sự Biến Huyền Vũ Môn, chính ông đã giết hai người bạn bè của mình là Lý Kiến Thành bà Lý Nguyên Cát tại Huyền Vuc Môn, thành Trường An. Sau đó Đường Cao Tổ đã phong vị lập ngôi cho Thế Dân làm Hoàng Thái Tử, hai tháng sau ông nhường ngoi cho con ông và trỏe thành tháu thượng hoàng. Người đời gọi triều đai của ông là Trinh Quán chi trị貞觀之治 / zhēnguàn zhī zhì /, thời đại này được xem như thể biểu mẫu để so sánh với những triều đại sau đều bắt buộc phải học tập theo, cũng như so với những nước đồng văn ở Nước Ta và Nhajaty Bản. Đại cường của Thái Tông đã được đặt nền làm nền móng vững chãi cho triều đại sau, do chính cháu cố của ông là Đường Huyền Tông trở đại thành thời đại hoàng kim nhất lịch sử phong kiến Trung Quốc, sử gọi là Khai Nguyên thịnh thế. Một thế kỉ sau khi Đường Thái Tông băng hà thì nhà Đường vẫn duy trì và hưởng sự độc lập và thịnh vượng .
                 

9. Tùy Văn Đế

Tùy Văn Đế chính là Tùy Cao Tổ隋文帝/suí wéndì/ tên Hán của ông chính là Dương Kiên楊堅/yángjiān/, tên tiên ti của ông là Fuluruqen (普六茹堅, Phổ Lục Như Kiên) ), biệt danh Nryana (tiếng Trung: 那羅延; bính âm: Nàluóyán, Na La Diên, nghĩa là kim cương bất hoại), nguyên quán ở Hoa Âm, Hoằng Nông, là người sáng lập và hoàng đế đầu tiên của nhà Tùy (581 – 618) trong lịch sử Trung Quốc. Tùy Văn Đế được đánh giá là một vị hoàng đế tài baz, người mà đã mang lại sự thái bình và thịnh vượng cho Trung Hoa sau hàng trăn năm đất nước này bị chia cắt, và ông cũng hcisnh là người đã khai sáng ra Khai Hoàng chi trị (開皇之治Kāi huáng zhī zhì). Chính Khai Hoàng chi trị đã đẳ nềm móng, tạo tiền đề cho vuwxg chắc cho triều đại nhà Đường, giúp nhà Đường hưng  thịnh về sau .vào năm 589TCN, dưới thời cai trị của ông, Trung Quốc đã được thống nhất trở lại sau 250 năm bị chia cắt từ ngày đế chế của Tây Tấn bị sụp đổ năm 316. Ông đã khởi công, xây sựng hệ thống đê điều, kênh đào. Vận Hà chính là công trình thủy lợi quan trọng, mạng ý nghĩa to lớn cho Trung Quốc thời ohong kiến và đến tạ ngày nay .


Một điều không hề chói cãi rằng những năm quản lý của Tùy văn Hoàng Đế chính là quá trình thịnh vượng, phồn hoa chưa từng thấy tỏng lịch sử Trung Quốc tính từ thời Hán trở đi. Giai đoạn đó, nền kinh tế tài chính tăng trưởng vững mạnh, lương thực lúc đó được tính sẽ đủ dùng cho 50 năm sau, về quân đội cũng gặt hái được nững thành công xuất sắc, thành tưu to lớn đáng kể. Vào những năm đầu của quy trình tiến độ đầu thời kì nhà Tùy phải đương đầu cới những rình rập đe dọa từ Đột Quyết tại khu vực phía Bắc, Thổ Phiên ở phía Tây, Cao Câu Ly ở miền đông bắc, và Champa ( Lâm Ấp ) từ phía nam. Đến cuối đời Văn Đế, Đột Quyết đã bị phân loại thành hai miền đông tây, và Đông Đột Quyết cùng Cao Câu Ly đã chịu thần phục nhà Tùy trên danh nghĩa, trong khi người Chăm cũng bị vượt mặt và không còn là một mối rình rập đe dọa so với Trung Quốc nữa .

Tùy Văn Đế cũng được biết đến và  nổi tiếng vì là một trong những vị hoàng đế không có nhiều thê thiếp của thời phong kiến Trung Quốc (chỉ sau Tây Ngụy Phế Đế và Hoằng Trị Đế là hai vị hoàng đế cả đời chỉ lấy một vợ.) Văn Đế dù có nạp hai người thiếp, nhưng không bao giờ có quan hệ tình ái với họ trước khi hoàng hậu Độc Cô Già La, người vợ mà ông yêu thương sâu sắc, qua đời.

10. Hán Quang Vũ Đế漢光武帝 / hàn guāng wǔdì /


Hán Quang Vũ Đế hay ông còn có tên gọi khác là Hán Thế Tổ漢世祖 / hàn shìzǔ /, húy là Lưu Tú劉秀 / liúxiù /, biểu tự là Văn Thúc文叔 / wén shū /, ông sinh ngày 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57. Ông chính là vị hoàng đế đã sáng lập ra triều đại Đông Hán trong lịch sừ của Nước Trung Hoa, đồng thời ông cũng là vị hoàng đế thứ 16 trong triều đại nhà Hán. Ông quản lý cõi Trung Quốc từ ngày 5 tháng 8 năm 25 cho đến khi băng hà, tổng số ông trị vì 32 năm. Ông là dòng dõi xa của nhà Tây Hán và từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại chính quyền sở tại Vương Mãng, Hán Quag Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền sở tại mới của Lục Lâm, ông đã chỉ huy và vượt mặt lực lượng cát cứ và thống nhất vương quốc bờ cõi. Chính do đó đã mở ra thời kì hưng thịnh phồn hoa của Trung Quốc sau nhiều năm dịch chuyển, thời kì quản lý của ông được người đời gọi là Quang Vũ Trung Hưng光武中興 / guāngwǔ zhōngxìng /. Trong sử kí ghi chép lại về cuộc sống ông, Quang Vũ Đế được nhìn nhận cao, điển hình nổi bật với tài cầm binh, sau khi xưng Đế, chính ông đã đích thân mình dẫn binh thảo phạt tứ phương, thu phục được nhiều quân phiệt và củng cố chính quyền sở tại, quân đội của nhà Hán sau thời kì quốc gia bị gián đoạn. Ông chiêu mộ nhân tài tứ xứ, trong hiền đãi sĩ, khoan hậu trọng chữ tín, nên ông được chư hầu Đậu Dung竇融 / dòu róng /, tướng Mã Viện đều quy phục. Khác với tổ tiên Hán Cao Tổ Lưu Bang hay là những vị Hoàng Đế khia quốc về sau như Ming Thái Tổ Chu Nguyên Chương, người đã không sát hại hiền thần theo mình như những vị vua khác mà ông lại rất thiện đãi, khuất phục trước họ vì họ Giao hàng ông cho đến hết triều đại của mình .
Khi so với quân Hung Nô, Quang Vũ Đế sáp nhập Nam Hung Nô vào vùng ranh giới lãng thổ của nhà Hán, nhập vào 8 Q. biên phòng của khu vực phía Bắc những khu vực : Bắc Địa, Sóc Phương, Ngũ Nguyên, Vân Trung, Định Tương, Nhạn Môn, Đại Quân, và Tây Hà. Tính theo thời hạn, diên biên Bát Quận này ngày càng trở thành một thế lực mạnh, góp phần cho triều đại nhà Hán những thành tựu, góp phần to lớn, ngăn ngừa Bắc Hung Nô và tự tạo thành một đội quân hùng mạnh, đế chế thế lực quân phiệt .

➥ [Tổng hợp] Lịch sử phong kiến Trung Quốc