Lịch sử Âm nhạc Việt Nam (P7): Thời cận đại – Hội Âm Nhạc Hà Nội

17

Âm nhạc Việt Nam thời cận đại hoàn toàn có thể chia làm các quy trình tiến độ sau :

1. Thời Pháp thuộc

* Giai đoạn chuẩn bị

Vào những năm đầu thế kỷ 20. Đây là quá trình có nhiều đổi khác trong thẩm mỹ và nghệ thuật văn học Việt Nam nói chung, Open sau trào lưu thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa truyền thống phương Tây được gia nhập vào Việt Nam gây nên những trộn lẫn lớn trong xã hội. Nhiều giá trị tư tưởng bền vững và kiên cố mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ Tây học xem thường, thậm chí còn trở thành đối tượng người dùng để mỉa mai của nhiều người. Tầng lớp tư sản, tiểu tư sản ở thành thị hình thành. Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên ( tri thức, viên chức hạng sang ) đã có một lối hoạt động và sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương. Họ ở nhà lầu, đi xe hơi, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng biểu lộ ngay cả trong cách ăn mặc của người trẻ tuổi, mốt quần áo đổi khác mỗi năm. Những thay đổi về hoạt động và sinh hoạt cũng đồng thời với sự đổi khác về ý nghĩ và xúc cảm. Những đổi khác đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa truyền thống lãng mạn Pháp .
Âm nhạc của châu Âu theo chân những người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thời thánh Công giáo. Các linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục tiêu truyền giáo. Tiếp đó người dân được làm quen với “ nhạc nhà binh ” qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu sang ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ xưa phương Tây. Từ đầu thế kỷ 20, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ cập can đảm và mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng rồi qua những bộ phim nói. Những người trẻ tuổi yêu âm nhạc thời kỳ đó mở màn chơi mandoline, ghita và cả vĩ cầm, dương cầm .
Giai đoạn trước 1937 được xem là quá trình hình thành Tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là “ tiến trình tượng hình ”. Còn Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là “ thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới ”. Giống như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của trào lưu thơ mới chịu tác động ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp, các nhạc sĩ tiền chiến chịu ảnh hưởng tác động bởi âm nhạc phương Tây .
Thời kỳ này 1 số ít nhạc sĩ cải lương khởi đầu soạn các nhạc phẩm, thường được gọi là “ bài tây theo điệu ta ”. Người tiêu biểu vượt trội cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên và soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu phổ cập khi đó để sử dụng trong các vở sân khấu như : Marinella trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói trái tim, Tango mystérieux trong Đóa hoa rừng, La Madelon trong Giọt lệ chung tình … Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là Hoài tình rất được ưu chuộng .
Không chỉ các nghệ sĩ, trong giới người trẻ tuổi yêu nhạc cũng có trào lưu chuyển ngữ các bài hát của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton … mà họ yêu thích. Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka mới thu âm các bài ta theo điệu tây. Khoảng thời hạn từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C’est à Capri, Tant qu’il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j’aime éperdument, Les gars de la marine, L’Oncle de Pékin, Guitare d’amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella … mà phần đông là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto và của Mỹ như Goodbye Hawaii, South of The Border … đã được phổ cập can đảm và mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc biệt quan trọng được giới trẻ yêu quý, đã có những hội Ái Tino được xây dựng ở TP. Hà Nội, TP. Hải Phòng .
Năm 1930, trong thời hạn bị tù ở Côn Đảo, nhạc sĩ Đinh Nhu đã viết ca khúc Cùng nhau đi Hồng binh. Theo Trần Quang Hải thì Cùng nhau đi Hồng binh là ca khúc tân nhạc tiên phong của Việt Nam. Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm người trẻ tuổi yêu âm nhạc ở TP.HN đã tập trung chuyên sâu cùng sáng tác. Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, ba thành viên của nhóm Tricéa đã viết nhiều ca khúc như Bẽ bàng ( 1935 ), Nghệ sĩ hành khúc ( 1936 ) của Lê Yên ; Tiếng sáo chăn trâu ( 1935 ), Bên hồ liễu ( 1936 ), Bóng ai qua thềm ( 1937 ) của Văn Chung. Tại Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản Trên sông Hương năm 1936. Lê Thương ở Hải Phòng Đất Cảng cũng có Xuân năm xưa năm 1936. Giai đoạn từ 1935 tới 1938 được nhạc sĩ Phạm Duy gọi là “ thời kỳ sẵn sàng chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam ” .

Bài hát Histoire d’un Amour được phổ lại lời Việt với tên Chuyện tình yêu

* Giai đoạn thành lập (1938-1945)

Năm 1938 được coi là điểm mốc lưu lại sự hình thành của Tân nhạc Việt Nam với những buổi trình diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại TP.HN .
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở TP HCM, là người Việt duy nhất tham gia hội Hiếu nhạc ( Philharmonique ). Ông mở màn hát nhạc Tây và đoạt được tình cảm của báo chí truyền thông và radio. Năm 1937 ông phổ một bài thơ của người bạn và viết thành ca khúc tiên phong của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó thao tác cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn trình làng ông với Thống đốc Nam Kỳ. Viên Thống đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Pagès [ 1 ] nghe ông hát và mời ông du lịch sang Pháp để liên tục học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên phủ nhận vì nguyên do mái ấm gia đình. trái lại ông lại đề xuất và được thống đốc Pagès hỗ trợ vốn cho đi một vòng Việt Nam ra Huế, TP.HN, TP. Hải Phòng, Tỉnh Nam Định để tiếp thị những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là “ âm nhạc cải cách ” ( musique renovée ) .
Tới Thành Phố Hà Nội vào tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên chuyện trò tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc hoạt động cải cách, ông đã gặp một cử tọa phần đông, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, hoàn toàn có thể nhiều người trẻ tuổi TP. Hà Nội lúc đó như đã cho việc hô hào của ông là thừa, vì các bài hát cải cách đã có sẵn ở đây. Tại hội Trí Tri Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã như mong muốn hơn. Tuy số người theo dõi chỉ độ 20 người, nhưng Nguyễn Văn Tuyên đã có người thông cảm. Trong buổi chuyện trò này, một vài nhạc sĩ của TP. Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình diễn tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng .
Tiếp đó tháng 9 năm 1938, tờ Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín khi ấy, cho đăng những bản nhạc tiên phong Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc …
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành. Từ đầu 1939, các bản nhạc của được bán tại các hiệu sách, phần đầu hình thành Tân nhạc Việt Nam .

Bài hát Một kiếp hoa ( Hoa tàn ) của Nguyễn Văn Tuyên được phổ từ thơ của Nguyễn Văn Cổn

Bài hát Bản đàn xuân của Lê Thương

2. Giai đoạn 1945 – 1954

Từ năm 1945, tân nhạc Việt Nam mở màn có sự phân tách. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ thủ đô hà nội và những thành phố lớn để tham gia kháng chiến. Nhưng 1 số ít vẫn ở lại trong vùng trấn áp của Pháp hoặc có những nhạc sĩ theo kháng chiến rồi lại quay trở lại thành phố .
Với đề tài kháng chiến, ở miền Bắc, Đỗ Nhuận viết Du kích sông Thao, Nhớ chiến khu, Hoàng Vân có Hò kéo pháo, Văn Chung viết Quê tôi giải phóng, Lê Yên viết Bộ đội về làng … Ở miền trung có Bình Trị Thiên khói lửa của Nguyễn Văn Thương, Lời người ra đi của Trần Hoàn, Đoàn vệ quốc quân, Có một đàn chim của Phan Huỳnh Điểu, Du kích Ba Tơ của Dương Minh Viên … Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn như Hoàng Việt với Lên ngàn, Nhạc rừng, Nguyễn Hữu Trí với Tiểu đoàn 307, Trần Kiết Tường với Anh Ba Hưng, Con kênh xanh xanh của Ngô Huỳnh. Một đề tài sáng tác mới nữa của các nhạc sĩ là ca tụng Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam. Lưu Hữu Phước đã viết Chào mừng Đảng lao Động Việt Nam, Lưu Bách Thụ viết Biết ơn Cụ Hồ. Tham gia kháng chiến, Văn Cao đã sửa lời Bến xuân thành Đàn chim Việt và viết Trường ca Sông Lô, Ca ngợi Hồ quản trị. Các ca khúc này lưu lại sự sinh ra thực sự của nhạc kháng chiến, hay “ nhạc đỏ ”. Tuy vậy, ngay trong số những nhạc sĩ trên, nhiều người vẫn liên tục viết các ca khúc lãng mạn và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như Sơn nữ ca của Trần Hoàn, Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Nụ cười sơn cước của Tô Hải, Tình quê nhà của Việt Lang. Tham gia kháng chiến, Phạm Duy cũng có Chiến sĩ vô danh, Quê nghèo, Bà mẹ Gio Linh. Nhưng ông cũng viết Bên cầu biên giới và bài hát bị coi là không hợp với thực trạng chiến đấu khi đó và về sau ông rời bỏ miền Bắc vào Nam. Ở các vùng đô thị thuộc trấn áp của Pháp, những nhạc sĩ vẫn sáng tác nhạc lãng mạn như Văn Giảng với Ai về sông Tương, Lâm Tuyền với Tiếng thời hạn, Văn Phụng với Mơ khúc tương phùng … Lê Thương vào miền Nam viết các bản nhạc vui nhộn, trào phúng Hòa bình 48, Liên Hiệp Quốc. Ở TP.HN, năm 1947 Nguyễn Đình Thi viết ca khúc Người TP. Hà Nội. Trong quá trình này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951, hãng đĩa Oria đã thu 1 số ít đĩa nhựa 78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh, Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý những ca khúc Hội nghị Diên Hồng của Lưu Hữu Phước, Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy, Tiếng thùy dương, Hòa bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan Trường …
Sau thành công xuất sắc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và được sự ủng hộ của báo chí truyền thông, nhiều nhóm nhạc được xây dựng và các nhạc sĩ thông dụng thoáng đãng những tác phẩm của mình. Và ngay từ thời kỳ này, nhiều nhạc sĩ kĩ năng đã ghi dấu ấn với các nhạc phẩm trữ tình lãng mạn. Một số thuật ngữ được dùng để chỉ nền tân nhạc Việt Nam tiến trình này, phổ cập nhất là “ nhạc tiền chiến ”. Dòng nhạc tiến chiến còn lê dài tới năm 1954 và cả sau 1954 ở miền Nam .
Những bài hát cải cách nhanh gọn được giới trẻ sinh viên, tri thức hâm mộ đảm nhiệm, tuy nhiên nó cũng gây nên nhiều quan điểm khác nhau. Các tri thức phong kiến thì chỉ trích còn giới dân nghèo thì hờ hững. Với phong thái trữ tình lãng mạn, các ca khúc tiền chiến có lời ca mang tính văn học cao. Ngoài các ca khúc về tình yêu, chủ đề lịch sử, yêu nước là những đề tài chính của nhạc tiền chiến .

Hò kéo pháo của Hoàng Vân

Sơn nữ ca của Trần Hoàn

3. Giai đoạn 1954 – 1975

* Miền Bắc

Hiệp định Genève năm 1954 tạm chia Việt Nam thành hai vùng tập trung chuyên sâu quân sự chiến lược để chờ tổng tuyển cử toàn nước năm 1956. Chính quyền Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa phủ nhận thi hành tổng tuyển cử theo hiệp định, hành vi này đã chia Việt Nam thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam .
Tại miền Bắc, nhạc kháng chiến liên tục và cùng với nhạc dân ca, truyền thống cuội nguồn là những thể loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc. Các ca khúc nhạc đỏ để cổ vũ ý thức chiến đấu của chiến sỹ, ship hàng cuộc chiến tranh, truyền đạt những chủ trương của nhà nước, khuyến khích tình yêu lý tưởng cộng sản, cũng có cả những bài hát trữ tình, biểu lộ tình yêu quê nhà quốc gia hoặc cổ vũ lao động, thiết kế xây dựng .
Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự chỉ huy của Đảng Lao động Việt Nam, tân nhạc cũng như điện ảnh, có trách nhiệm chính là cổ vũ chiến đấu. Dòng nhạc Cách mạng chiếm vị trí duy nhất, các nhạc sĩ lãng mạn như Văn Cao, Đoàn Chuẩn hầu hết không còn sáng tác. Song song với lớp nhạc sĩ đầu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, sau đó tới Doãn Nho, Tô Hải, Hồ Bắc, Huy Thục, đã Open 1 số ít nhạc sĩ trẻ hơn Trọng Bằng, Cao Việt Bách …
Việc một số ít nhạc sĩ được gửi đi học ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc … và nhiều đoàn ca múa chuyên nghiệp của các vương quốc Liên Xô và Đông Âu tới Thành Phố Hà Nội trình diễn đã tạo nên sự tác động ảnh hưởng tới tân nhạc Việt Nam. Bốn chủ đề sáng tác chính của các nhạc sĩ miền Bắc thời kỳ này là :
– Hồ Chí Minh
Ca ngợi hình ảnh lãnh tụ được bộc lộ qua nhiều bài hát như Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm Tuyên, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người của Trần Kiết Tường, Ðôi dép Bác của Văn An, Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô Vũ, Lời ca dâng Bác của Trọng Loan, Trồng cây lại nhớ đến Người của Ðỗ Nhuận, Ca ngợi Hồ quản trị của Văn Cao, Tình Bác sáng đời ta của Lưu Hữu Phước …
– Phong cảnh và tâm hồn Việt Nam
Một số ca khúc như Quảng Bình quê ta ơi của Hoàng Vân, Vàm Cỏ Ðông của Trương Quang Lục, Tây Nguyên quật cường của Văn Ký, Bài ca TP.HN của Vũ Thanh, Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây của Hoàng Hiệp, Một khúc tâm tình của người TP Hà Tĩnh của Nguyễn Văn Tý, Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long của Huỳnh Thơ, Cô gái Hồ Chí Minh đi tải đạn của Lư Nhất Vũ …
– Dân tộc thiểu số
Do thực trạng cuộc chiến tranh, một số ít nhạc sĩ có những tiếp xúc với các dân tộc thiểu số và đã viết các ca khúc như Tiếng đàn ta lư ( Huy Thục ), Cô gái cầm đàn lên đỉnh núi ( Văn Ký ), Bản Mèo thay đổi ( Trịnh Lai ), Em là hoa Pơ Lang ( Ðức Minh ), Bóng cây kơ nia ( Phan Huỳnh Ðiểu ) …
– Kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam
Tân nhạc với trách nhiệm cổ vũ chiến đấu, đây là đề tài chính của nhiều bài hát : Anh vẫn hành quân ( Huy Du ), Chào anh giải phóng quân ( Hoàng Vân ), Lời anh vọng mãi ngàn năm ( Vũ Thành ), Bài ca năm tấn ( Nguyễn Văn Tý ), Lá thư hậu phương ( Phạm Tuyên ), Trai anh hùng, gái đảm đang ( Ðỗ Nhuận ), Bài ca may áo ( Xuân Hồng ), Hành khúc giải phóng ( Lưu Nguyễn Long Hưng, tức Lưu Hữu Phước ), Giải phóng miền Nam ( Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước ) … trong đó bài Giải phóng miền Nam được dùng làm bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 tới năm 1975 .
Kế thừa trong thực tiễn TP. Hà Nội là TT của cả Đông dương thuộc Pháp, kỹ năng và kiến thức văn hóa truyền thống âm nhạc phương Tây được miền Bắc hấp thụ trước miền Nam, vốn có đờn ca tài tử làm chủ yếu. Trong những năm 1954 – 1975, do bị chính quyền sở tại số lượng giới hạn ở chủ đề sáng tác, các nhạc sĩ miền Bắc tập trung chuyên sâu vào phát minh sáng tạo trong nghành trình độ âm nhạc với các kỹ thuật nhạc thính phòng và phô diễn các năng lực thanh nhạc nhiều hơn nhạc miền Nam cùng thời, vốn tập trung chuyên sâu vào số lượng và sự tự do trong chủ đề sáng tác. Một số tác phẩm tiêu biểu vượt trội chứng tỏ là Trường ca sông Lô, bài hát Người TP. Hà Nội ( Nguyễn Đình Thi ), Tổ khúc quê nhà với các đổi khác bất ngờ đột ngột trong cả nhịp điệu và phong thái, đồng thời nhu yếu ca sĩ phải có một kỹ thuật thanh nhạc tốt mới hoàn toàn có thể trình diễn các tác phẩm trên .
Ngoài các ca khúc đại trà phổ thông, nhiều thể loại khác cũng được các nhạc sĩ thể nghiệm. Ảnh hưởng bởi các màn hợp xướng do các đoàn văn nghệ Liên Xô và Đông Âu trình diễn ở TP.HN, một số ít nhạc sĩ Việt Nam đã soạn các ca khúc cho nhiều bè như năm 1955 có Hò đẵn gỗ của Đỗ Nhuận, Sóng cửa Tùng của Doãn Nho, Chiến sĩ biên phòng của Huy Thục, năm 1956 và 1957 có Ta đã lớn, Hò thiết kế của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng chim của Lưu Cầu, Tiếng hát người chiến sỹ biên thùy của Tô Hải năm 1958 …
Một số vở thanh xướng kịch cũng Open : Vượt sông Cái của Nguyễn Xuân Khoát viết năm 1955, Nguyễn Văn Trỗi của Đàm Linh theo lời thơ Chu Điền năm 1965. Một vài thể loại nữa là các ca kịch nhỏ ( như Tục lụy của Lưu Hữu Phước ), kịch hát nói ( Căn nhà màu hồng ngọc của Hoàng Vân ) .
Sự Open các bộ phim điện ảnh cách mạng cũng dẫn tới nhiều ca khúc cho phim được sáng tác. Tác giả nhạc phim tiên phong là Nguyễn Đình Phúc với phim Chung một dòng sông và Lửa trung tuyến. Tiếp đó tới các nhạc sĩ khác như Trọng Bằng với Cù Chính Lan, Biển lửa, Hồng Đăng với Thành Phố Hà Nội mùa chim làm tổ, Hoàng Vân với Con chim vành khuyên …

Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô Vũ

* Miền Nam

Ở miền Nam, với sự tự do, đa dạng hơn trong sáng tác nghệ thuật, các nhạc sĩ đã viết các ca khúc thuộc nhiều thể loại. Dòng nhạc tiền chiến được Cung Tiến, Phạm Đình Chương tiếp tục. Một số nhạc sĩ trẻ như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An sáng tác các bản tình ca mới. Dòng nhạc vàng xuất hiện với các tên tuổi tiêu biểu Hoàng Thi Thơ, Trúc Phương, Lam Phương. Văn hóa Âu Mỹ tràn ngập miền Nam dẫn đến sự hình thành dòng nhạc trẻ. Bên cạnh đó là các phong trào Du ca và dòng nhạc phản chiến. Một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc phản chiến này và cả tình ca là Trịnh Công Sơn.

Khác với miền Bắc, ở miền Nam quá trình 1954 – 1975 các nghệ sĩ về cơ bản được tự do sáng tác các loại nhạc, trừ nhạc phản chiến, nhạc cách mạng, và các nhạc phẩm thân Cộng hoặc có xu thế chống Mỹ nói chung. Cũng như điện ảnh, tân nhạc ở miền Nam thời kỳ này hình thành một thị trường sôi động. Các dòng nhạc tiến chiến, tình khúc, nhạc vàng đều có phần đông người nghe và các nghệ sĩ riêng. Dòng nhạc tiền chiến được các giọng ca số 1 như Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Hà Thanh, Duy Trác liên tục. Nhạc vàng của các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Lam Phương được các ca sĩ Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền biểu lộ. Các tình khúc mới của Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương, Từ Công Phụng, Vũ Thành An được giới trẻ tiếp đón nồng nhiệt qua các tiếng hát Khánh Ly, Lê Uyên, Lệ Thu. Một số ca sĩ, nhạc sĩ, ban nhạc trẻ Open lưu lại sự sinh ra của dong nhạc trẻ như Elvis Phương, Nguyễn Trung Cang, Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. Các hãng băng nhạc Sơn Ca, Trường Sơn, Shotguns … được phát hành đều đặn .
( còn nữa … )
( Nguồn : https://sites.google.com/ )