KHẢO SÁT THỊ TRƯỜNG KINH DOANH THỰC PHẨM CHỨC NĂNG – Tài liệu text
KHẢO SÁT THỊ TRƯỜNG KINH DOANH THỰC PHẨM CHỨC NĂNG
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.71 KB, 27 trang )
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
—-oo0oo—–
BÀI TIỂU LUẬN MÔN
THỰC PHẨM CHỨC NĂNG
ĐỀ TÀI
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KINH DOANH THỰC PHẨM CHỨC NĂNG ĐA
CẤP VÀ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VỀ THỰC PHẨM CHỨC
NĂNG
GVHD: Nguyễn Thủy Hà
NHÓM: 1
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
STT HỌ VÀ TÊN
MÃ SỐ SINH VIÊN
1
Võ Tú Phụng
2005140422
2
Nguyễn Thị Mai Phương
3
Đặng Quế Dung
4
Phan Thị Hoàng Xuân
5
Trần Xuân Tảo Mai
6
Nguyễn Thị Thủy Tiên
2
NHIỆM VỤ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………………….. 5
I.
KHÁI QUÁT VỀ HÌNH THỨC KINH DOANH ĐA CẤP: …………………………….. 6
1.1
Khái niệm: …………………………………………………………………………………………………. 6
1.2
Đặc điểm: …………………………………………………………………………………………………… 6
1.3
Vai trò: ………………………………………………………………………………………………………. 7
II. THỊ TRƯỜNG THỰC PHẨM CHỨC NĂNG ……………………………………………….. 7
2.1 Tổng quan thị trường TPCN tại Việt Nam ……………………………………………………… 7
2.2 Nguyên nhân khiến thị trường bùng phát: ……………………………………………………… 8
2.3
Hiện trạng kinh doanh TPCN trên Thế giới ………………………………………………… 9
III. CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI, TIÊU CỰC TRONG PHƯƠNG THỨC KINH
DOANH ĐA CẤP TPCN …………………………………………………………………………………….. 9
3.1
Một số vấn đề còn tồn tại ……………………………………………………………………………. 9
3.2 Tác động tiêu cực của hành vi kinh doanh đa cấp TPCN …………………………… 11
3.2.1 Đối với doanh nghiệp kinh doanh đa cấp …………………………………………………… 11
3.2.2 Đối với người tham gia, tiêu dùng …………………………………………………………….. 11
3.2.3 Đối với xã hội…………………………………………………………………………………………. 12
IV.
KHẢO SÁT CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VỀ TPVN ………………………………….. 13
4.1
Nhu cầu tiêu dùng TPCN ………………………………………………………………………….. 13
4.2
Các yếu tố tác động đến người mua TPCN ………………………………………………… 14
V. CÁC HÌNH THỨC KINH DOANH TPCN HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ QUY
ĐỊNH KHI KINH DOANH TPCN …………………………………………………………………….. 17
5.1 Các hình thức kinh doanh TPCN hiện nay ……………………………………………………. 17
3
5.2 Những quy định cần thiết trước khi kinh doanh TPCN …………………………………. 17
5.3 Hoạt động quản lý và những vấn đề bất cập trong quản lí thực phẩm chức năng:
…………………………………………………………………………………………………………………………. 18
5.3.1 Hoạt động quản lý ……………………………………………………………………………………. 18
5.2.3 Bất cập trong quản lí: ………………………………………………………………………………. 19
5.2.3.1 Xem quảng cáo, không biết là thuốc hay thực phẩm” ……………………………… 19
5.2.3.2″Thần dược” hỗ trợ đắt hơn cả giá thuốc ………………………………………………… 20
VI.
VÍ DỤ VỀ SAI PHẠM TRONG KINH DOANH ĐA CẤP TPCN: ……………… 22
6.1
Amway …………………………………………………………………………………………………….. 22
6.2
Công ty Thiên Ngọc Minh Uy ……………………………………………………………………. 23
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………………. 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………………….. 26
4
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam thực phẩm chức năng tuy mới xuất hiện gần đây trong sự đón nhận dè
dặt của dân chúng nhưng nó cũng đã lan dần như một làn sóng ngầm rộng khắp. Tâm lý
đám đông của người Việt cũng làm cho Việt Nam trở thành “miền đất hứa” cho kiểu bán
hàng đa cấp. Những vấn nạn về xã hội và môi trường, ám ảnh về vệ sinh an toàn thực
phẩm và nỗi lo về sức khoẻ bệnh tật khiến cho thực phẩm chức năng trở thành niềm hy
vọng, là cứu cánh cho mỗi người và mỗi gia đình. Tuy nhiên, cần có sự hiểu biết đúng
đắn về thực phẩm chức năng để có thái độ hành xử đúng đắn, không bài xích và cũng
không mê muội.
5
I. Khái quát về hình thức kinh doanh đa cấp:
1.1 Khái niệm:
Kinh doanh đa cấp (tiếng anh là Multi-level Marketing) hoặc kinh doanh theo
mạng (Network Marketing) hay bán hàng đa cấp (tên gọi thông dụng ở Việt Nam) là
thuật ngữ chung dùng để chỉ một phương thức marketing sản phẩm kinh doanh/ bán hàng
trực tiếp đến tay người tiêu dùng, họ có thể trực tiếp đến mua hàng tại công ty (hoặc qua
một nhà phân phối duy nhất) mà không phải thông qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ.
Nhờ vậy mà có thể tiết kiệm được nhiều chi phí từ sân bãi, kho chứa, vận chuyển hàng
hóa, khuyến mãi, quảng cáo và các chương trình tiếp thị khác. Số tiền này thay vào đó,
được trả thưởng cho nhà phân phối và nâng cấp, cải tiến sản phẩm. đây là phương thức
tiếp thị tận dụng chính thói quen của người tiêu dùng: khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ tốt
thường chia sẻ cho người thân và bạn bè.
Hình 1.1.Sơ đồ mạng lưới phân phối của kinh doanh đa cấp
1.2 Đặc điểm:
6
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa.
Người tham gia tiếp thị hàng hóa tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng
Người tham gia được hưởng lợi ích từ việc bán hàng và tạo lập mạng lưới bán hàng
1.3 Vai trò:
Đối với người tiêu dùng
Mua hàng trực tiếp từ người sản xuất
Tránh nạn hàng giả
Tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
Đối với doanh nghiệp
Tiết kiệm được chi phí quảng cáo
Cắt giảm các chi phí bán hàng: chi phí thuê mặt bằng trưng bày, chi phí vận chuyển
Một hình thức PR sản phẩm hữu hiệu
II. Thị trường thực phẩm chức năng
2.1 Tổng quan thị trường TPCN tại Việt Nam
Theo Hiệp hội Thực Phẩm Chức Năng,
thực phẩm chức năng là sản phẩm hỗ trợ các
chức năng của các bộ phận trong cơ thể, có
phẩm chức năng (TPCN) là sản phẩm hỗ trợ
hoặc không có tác dụng dinh dưỡng, tạo cho cơ
thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng,
giảm nguy cơ và tác hại bệnh tật. Tác dụng của
TPCN là có khả năng cải thiện sức khỏe và làm
giảm thiểu nguy cơ và tác hại bệnh tật, bao
gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức
Hình2.1. Thực phẩm chức năng bày
bán trong một nhà thuốc tự
Hình2.1. Thực phẩm chức năng bày bán
trong một nhà thuốc
khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học. Nó không
phải là trị liệu y học nhằm mục đích điều trị
hay cứu chữa bệnh tật của con người.
7
Từ năm 1999, TPCN từ các nước bắt đầu nhậpkhẩu chính thức vào Việt Nam.
Đồng thời, do có sẵn nguồn nguyên liệu, có lịch sử lâu đời nền y học cổ truyền, có sẵn
dây truyền sản xuất thuốc và đội ngũ công nhân chuyên nghiệp và trào lưu phát triển
TPCN trên thế giới, các công ty dược, các cơ sở sản xuất thuốc Y học cổ truyền bắt đầu
chuyển sang sản xuất TPCN. Tính đến cuối năm 2012, gần như cả ngành dược Việt Nam
đã lao vào lĩnh vực TPCN, với sự tham gia của 1,781 doanh nghiệp.
Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng năm 2000 là 13 cơ sở,
đến cuối 2012 là 1,552 cơ sở, với hơn 5,500 sản phẩm. Năm 2013, số cơ sở SXKD TPCN
đã tăng lên 3,512 cơ sở (tăng 226% so với 2012), với 6,851 sản phẩm (tăng 124%). Trong
đó, 80% sản phẩm TPCN là nhập khẩu – 20% sản phẩm sản xuất trong nước. Sản phẩm
xuất khẩu đang gia tăng nhanh chóng, tăng 172% giai đoạn 2012-2013, trong khi sản
phẩm sản xuất trong nước giảm 23% giai đoạn 2012-2013.
Số Cơ sở SXKD TPCN
Số Sản phẩm TPCN
Hình 1.2. Số cơ sở kinh doanh TPCN và số lượng sản phẩm TPCN năm 2005 – 2013
(Nguồn: Hiệp hội TPCN Việt Nam 2014)
2.2 Nguyên nhân khiến thị trường bùng phát:
Thứ (1) là sự bùng nổ các bệnh của xã hội công nghiệp và ô nhiễm môi trường.
Thứ (2), người tiêu dùng đang hướng về một lối sống lành mạnh, quan tâm hơn đến
các sản phẩm thiên nhiên và các biện pháp phòng bệnh.
Thứ (3), công chúng ngày càng quan tâm hơn đến mối quan hệ giữa thực phẩm, chế
8
độ dinh dưỡng và sức khỏe.
Thứ (4), nguyên nhân quan trọng nhất, nhận thức về tầm quan trọng tự bảo vệ sức
khỏe và phòng chống bệnh tật liên quan đến dinh dưỡng và lối sống.
Thứ (5), những kết quả nghiên cứu khoa học về lợi ích của rau quả, ngũ cốc trong
phòng bệnh, các chất chống ô xy hóa và các hợp chất toàn phần của thực vật có tác
dụng tốt đối với sức khỏe,
(theo PGS- TS Lê Văn Truyền)
2.3 Hiện trạng kinh doanh TPCN trên Thế giới
Theo PGS-TS Lê Văn Truyền thì 70% người dân ở Mỹ thường xuyên sử dụng
TPCN để phòng bệnh. Theo thống kê, tại Mỹ có khoảng 55.000 loại thực phẩm chức
năng (TPCN), so với các nước trên thế giới thì Mỹ là quốc gia mà TPCN được ưa chuộng
nhất. Mỗi năm người Mỹ chi ra một khoản tiền không nhỏ dành cho TPCN, khoảng 32
tỷ USD. Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank, 2006), thị trường TPCN ở Mỹ chiếm
35%, Châu Âu 32%, Nhật Bản 25% và phần còn lại của các nước trên thế giới là 8%.
Thị trường TPCN tại Mỹ năm 2007 là 27 tỉ USD và năm 2013 được dự đoán tăng lên 90
tỉ USD. Xu thế phát triển TPCN trên thế giới và khu vực ASEAN cũng tác động mạnh
mẽ vào thị trường Việt Nam lẽ đương nhiên. Tính đến 2013 thì có 39 quốc gia xuất khẩu
5,518 sản phẩm thực phẩm chức năng vào thị trường Việt Nam. Trong đó các sản phẩm
thực phẩm chức năng của Mỹ chiếm 18.15% thị phần TPCN ở Việt Nam, sau đó là Hàn
Quốc, Úc, Trung Quốc, Pháp, Malaysia, Thái Lan, Canada, Đức…
III. Các vấn đề tồn tại, tiêu cực trong phương thức kinh doanh đa cấp TPCN
3.1 Một số vấn đề còn tồn tại
Đầu tiên là nhận thức chưa đầy đủ về TPCN: từ định nghĩa, phân loại, phân biệt,
tác dụng, quản lý TPCN trên thế giới và ở Việt Nam. Các quy định pháp luật về TPCN
còn thiếu và chưa đầy đủ, đặc biệt là các tiêu chuẩn và quy định quản lí. Cách cung cấp
kiểu bán hàng đa cấp với mục đích lôi kéo người mua bằng mọi giá để kiếm lợi dễ mang
9
đến những thông tin thiếu chính xác và ngộ nhận. Nhất là với những “tiếp thị
viên” không có kiến thức y học, thậm chí thiếu kiến thức văn hoá thông thường thì sự
truyền đạt giới thiệu dễ thiên lệch và sai sót.
Tiếp đến là các cơ sở, công ty, tổ chức, cá nhân sản xuất còn mang tính riêng lẻ,
trước mắt vì lợi ích riêng của mình, chưa có sự liên kết, tổ hợp để tạo ra sức mạnh dây
chuyền và bền vững.
Người tiêu dùng sử dụng TPCN còn thấp, mục đích sử dụng phần lớn là để hỗ trợ
chữa bệnh. Kết quả điều tra của Cục ATTP (2011) cho thấy:
Người sử dụng TPCN chủ yếu là người trưởng thành đang có bệnh. Tỷ lệ sử dụng TPCN
ở Hà Nội là 68.1%, ở Tp. Hồ Chí Minh là 43.0%.
Thời gian sử dụng mới chỉ từ 1-12 tháng
Quảng cáo TPCN còn sai phạm: Kết quả điều tra của Cục ATTP (2011) cho thấy:
Cứ 10 quảng cáo trên truyền hình thì 2 quảng cáo chưa có giấy phép quảng cáo (20%).
Cứ 10 quảng cáo đã có giấy phép nhưng có 5 quảng cáo còn sai về nội dung so với công
bố tiêu chuẩn (50%).
Cuối cùng là ở Việt Nam, bác sỹ không được phép kê đơn thực phẩm chức năng
trong đơn thuốc. Chính vì điều này mà lâu nay thực phẩm chức năng được nhiều cá nhân,
tổ chức tự hiện quảng cáo trên webste, mạng xã hội,.. và cả kênh phân phối, tư vấn trực
tiếp của những người không có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực y tế (thông qua
mạng lưới bán hàng đa cấp). Cùng với sự bùng phát của các cơ sở, cá nhân kinh doanh
TPCN, mức chi tiêu cho quảng cáo trực tuyến các sản phẩm TPCN những năm qua luôn
đứng đầu trong các sản phẩm thực phẩm nói chung, cao hơn cả mức chi quảng cáo cho
sản phẩm Sữa và Đồ uống có cồn/không cồn.
Một số cơ sở kinh doanh đã tổ chức đi các vùng nông thôn liên kết với hội phụ nữ,
hội người cao tuổi tổ chức tuyên truyền, khám bệnh, xét nghiệm rồi bán sản phẩm với
phương thức “quét” một lần, đi qua không để lại đầu mối để liên hệ. Các hoạt động này
vi phạm luật khám chữa bệnh và các quy định quản lý của ngành y tế.
10
3.2 Tác động tiêu cực của hành vi kinh doanh đa cấp TPCN
3.2.1 Đối với doanh nghiệp kinh doanh đa cấp
“Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa”, chính những doanh nghiệp có hành vi kinh
doanh đa cấp bất chính đã làm vấy bẩn bộ mặt của những doanh nghiệp kinh doanh chân
chính. Do ngày càng nhiều người tham gia bị dụ dỗ, bị lửa đảo để rồi trở thành nạn nhân
của kinh doanh đa cấp bất chính thì tiếng xấu về kinh doanh đa cấp ngày càng tăng.
Thêm vào đó là tâm lý e ngại, dè chừng của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp đa cấp
và những sản phẩm của doanh nghiệp, cùng với tâm lý vơ cả nắm không cần phân biệt là
doanh nghiệp kinh doanh đa cấp chân chính hay bất chính hiện hữu trong đa số người
tiêu dùng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp hiện nay đã khó khăn trong
việc tạo niềm tin với người tiêu dùng, nay, gặp tiếng xấu này lại càng khó khăn hơn.
Không những vậy, hành vi bất chính của những doanh nghiệp này còn làm cho môi
trường cạnh tranh trở nên không lành mạnh, trong khi doanh nghiệp kinh doanh chân
chính tạo dựng thương hiệu của mình thông qua việc không ngừng tiếp thị rộng rãi và
nâng cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp bất chính lại phá hủy thành quả đó,
không những vậy, còn tạo tiếng xấu, gây những nhầm lẫn hiểu sai về phương thức kinh
doanh chân chính này.luật sư uy tín
3.2.2 Đối với người tham gia, tiêu dùng
Hơn ai hết, người tham gia chính là những người đầu tiên bị thiệt hại trực tiếp,
chính người tham gia là người mất không một khoản tiền lớn để có thể trở thành thành
viên của mạng lưới. Đối với mỗi người nông dân, khoản tiền này là từ mồ hôi, nước mắt
là thu nhập lớn lao của họ, nên khi mất đi, họ sẽ cố gắng lấy lại vốn bằng cách lôi kéo
những người khác; nhưng họ đâu có biết rằng, rồi người khác cũng bị lừa. Không những
mất đi niềm tin trong mắt bạn bè, người thân, những người đã bị dụ dỗ vào hình thức bất
chính này mà còn bị mang tiếng là lừa đảo, lừa đảo vì đã dụ dỗ lôi kéo ngay chính người
thân quen của mình và gian dối về những thông tin sai lầm về công dụng của sản phẩm
do người tham gia bị doanh nghiệp cung cấp một cách không chính xác. Tiền mất, tật
11
mang là những gì mà người tham gia trong các công ty kinh doanh đa cấp bất chính phải
hứng chịu, họ chỉ có thể trách do bản thân quá cả tin, hám lợi hay do các doanh nghiệp
này quá tinh vi, xảo quyệt.
Với người tiêu dùng, những doanh nghiệp bất chính thường tập trung vào việc dụ
dỗ người tham gia hơn là việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy cho nên, việc xuất
hiện các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính này làm cho người tiêu dùng hoang
mang về chất lượng sản phẩm mình đang dùng, thêm vào đó hàng kém chất lượng, không
đúng với những gì được tiếp thị sẽ xuất hiện ngày càng nhiều, việc người tiêu dùng bỏ ra
hàng trăm, hàng triệu hàng chục triệu để mua hàng nhưng không tương xứng với mức
tiền ấy là cũng chuyện thường tình. Việc doanh nghiệp đưa ra những thông tin gian dối
để ngưởi tiêu dùng mua sản phẩm là hành vi lừa đảo, nhưng hành vi này ngày càng tinh
vi với nhiều chiêu thức, vì vậy, không phải người tiêu dùng nào cũng đủ thông minh, đủ
kiến thức và trình độ để phân biệt và không trở thành nạn nhân của hành vi kinh doanh đa
cấp bất chính.
3.2.3 Đối với xã hội
Bất cứ hiện tượng tiêu cực nào xuất hiện thì dần dần toàn xã hội cũng phải gánh
chịu hậu quả của nó. Kinh doanh đa cấp bất chính cũng vậy, hành vi này làm phá vỡ các
mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội, vì kinh doanh đa cấp bất chính mà bạn bè, người quen
thậm chí là những người thân trong gia đình có khi không thèm nhìn mặt nhau. Con
người luôn trong trạng thái hoài nghi, mất niềm tin với mọi người xung quanh, gây tâm lý
lo sợ khi tham gia vào các mối quan hệ trong xã hội. Không những thế, bằng nhiều cách
thức khác nhau, cùng với những thủ đoạn lừa dối tinh vi trong kinh doanh đa cấp bất
chính làm gia tăng số nạn nhân, số thiệt hại và cũng gia một số tội phạm như lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, quảng cáo gian dối…làm cho xã hội vốn bất ổn nay càng nhiều bất ổn
hơn.luat sư bao chua
Tóm lại, kinh doanh đa cấp bất chính là một hành vi tiêu cực ảnh hưởng xấu đến
cuộc sống của con người, từ cá nhân, tổ chức đến toàn xã hội. Hành vi này đã và đang
xuất hiện ngày càng nhiều, xâm lấn môi trường kinh doanh của các nước trên thế giới nói
12
chung và Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy việc ngăn chặn và xử lý kịp thời hành vi bất
chính này là vô cùng thiết yếu, để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, người tiêu
dùng và toàn xã hội.
IV. Khảo sát của người tiêu dùng về TPVN
Báo cáo về người tiêu dùng Việt Nam 2013 cho thấy, sau những lo ngại về nền
kinh tế chưa ổn định và việc làm, sức khỏe là mối quan tâm thứ ba của người tiêu dùng
Việt Nam. Năm 2005, mức chi tiêu cho dược phẩm của người dân Việt Nam chỉ 10
USD/người/năm, 10 năm sau, mức chi tiêu cho sức khỏe đã tăng gần gấp 4 lần lên 38
USD/người/năm, dự báo mức chi tiêu sẽ đạt 85 USD/người/năm vào năm 2020.
4.1 Nhu cầu tiêu dùng TPCN
Các bệnh mãn tính chưa lây phổ biến gồm: tiểu đường, tim mạch, ung thư, xương
khớp, dị ứng, tiêu hóa, thần kinh, tăng cân béo phì, bệnh về da, hô hấp, rối loạn chuyển
hóa, rối loạn thị lực … chưa thể phòng bệnh bằng vắc xin mà cần thực hiện bổ sung thông
qua các vitamin, các vi chất dinh dưỡng, khoáng chất, các chất chống ôxy hóa. Thực
phẩm chức năng không chỉ cung cấp dinh dưỡng cơ bản mà còn có chức năng phòng
chống bệnh tật và tăng cường sức khỏe nhờ các chất chống ôxy hóa (beta-caroten,
lycopen, lutein, vitamin C, vitamin E…), chất xơ và một số thành phần khác.
Từ nguồn gốc bệnh mãn tính và lợi ích của TPCN có thể thấy, nhu cầu tiêu thụ
TPCN ngày càng tăng cao theo sự phát triển của xã hội, những người dân thành thị có
nhu cầu tiêu thụ cao hơn người dân nông thôn, những người lao động trí óc (như buôn
bán kinh doanh, quản lý trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị) sẽ có nhu cầu cao hơn
người lao động chân tay, những người lớn tuổi hơn sẽ có nhu cầu tiêu thụ cao hơn người
trẻ tuổi, nữ giới sẽ có nhu cầu cao hơn nam giới (do quan tâm về làm đẹp, sức khỏe bản
thân và gia đình cao hơn).
13
Thực phẩm
chức năng
Phòng
chống
bệnh tật
Tăngcường
sức khỏe
H
TPCN
4.2 Các yếu tố tác động đến người mua TPCN
Số người sử dụng TPCN ngày càng tăng. Chỉ tính những người sử dụng TPCN qua kênh
bán hàng đa cấp cho thấy: Năm 2005 có khoảng 1 triệu người ở 23 tỉnh (1.1% dân số)
sử dụng TPCN. Năm 2010 đã tăng lên 5,700,000 người ở khắp 63 tỉnh, thành phố (chiếm
6.6% dân số) sử dụng TPCN. Cục An toàn thực phẩm đã điều tra (năm 2011) cho thấy ở
TP. Hồ Chí Minh có 43% số người trưởng thành và ở Hà Nội có 63% số người trưởng
thành sử dụng TPCN.
14
(Nguồn: Nielsen 2013)
Hình4.1. Các yếu tố tác động đến hành vi mua sắm sản phẩm dinh dưỡng.
Theo nghiên cứu của Nielsen, những yếu tố quan trọng có ảnh hướng đến quyết
định mua sản phẩm dinh dưỡng là “Thành phần đầy đủ dinh dưỡng”, “Giảm nguy cơ mắc
bệnh”, “Giá cả phải chăng” và “Được sự chứng nhận bởi các chuyên gia y tế”.
Khảo sát thị trường một số sản phẩm TPCN cho thấy, TCPN có giá từ vài trăm
ngàn đồng cho đến vài triệu, khá cao so với thu nhập bình quân hàng năm của người tiêu
dùng là 24 triệu đồng/năm (2013). Bên cạnh đó, TPCN không giống như thuốc, không có
tác dụng tức thì, người tiêu dùng phải sử dùng nhiều lần trong khoảng thời gian nhất dài
mới có tác dụng càng khiến chi phí TPCN tăng cao. Với mức giá cao như hiện nay, khả
năng tiêu dùng TPCN ở những hộ gia đình có thu nhập cao sẽ cao hơn những hộ gia đình
có thu nhập thấp hơn.
15
Một số sản phẩm về kinh doanh thực phẩm chức năng
Bi-Jcare
Giúp nuôi dưỡng sụn khớp, tạo chất nhờn, tăng độ bền
và dẻo dai cho khớp, tăng sức mạnh liên kết cơ gân
sụn khớp
Bi – Q10
Tăng cường sức khỏe tim mạch, hỗ trợ điều trị các
bệnh tim mạch, huyết áp, thiểu năng mạch vành, suy
tim, nhồi máu cơ tim, tăng tuần hoàn não.
Super Strengh H3
Chống lão hóa, tăng cường sức khỏe. Làm đẹp điều
hòa huyết áp tim mạch, mỡ máu, sa sút trí tuệ, tiểu
đường.
Extra Gold Super Seal
Bổ thận tráng dương, chống suy giảm sinh lý, chống
phì đại tiền liệt tuyến, hỗ trợ điều trị vô sinh nam, tăng
cường chất lượng đời sống tình dục, chống nam hóa,
bất lực sinh lý, suy nhược cơ thể.
Sữa ong chúa Royal Jelly
Làm đẹp, chống suy nhược, điều hòa huyết áp, tăng
cường sức khỏe.
16
Vigo A+
Phục hồi khả năng sinh lý tự nhiên, suy nhược sinh lý, rối
loạn cường dương, chống lão hóa, giúp kéo dài tuổi thọ, an
toàn không có tác dụng phụ.
V. Các hình thức kinh doanh TPCN hiện nay và một số quy định khi kinh doanh
TPCN
Từ ngày 15/1/2015, Thông tư 34 của Bộ Y tế về quản lý TPCN có hiệu lực. Nội
dung của thông tư này chú trọng vào việc quy định về quản lý TPCN bao gồm kiểm soát
hiệu quả hơn về chất lượng, độ an toàn của sản phẩm. Trong đó, quy định rõ ràng hơn về
TPCN, phân loại, yêu cầu công bố về công dụng, liều lượng sử dụng, chống chỉ định,
bằng chứng khoa học… Đây là những vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển của
ngành TPCN trong những năm qua.
5.1 Các hình thức kinh doanh TPCN hiện nay
Tổ chức hội nghị, hội thảo giới thiệu sản phẩm
Kinh doanh đa cấp
Phân phối bán lẻ qua các nhà thuốc
5.2 Những quy định cần thiết trước khi kinh doanh TPCN
Đăng ký với cục an toàn thực phẩm cấp chứng nhận tiêu chuẩn sản phẩm
Đăng ký xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm
Đăng ký Giấy tiếp nhận quảng cáo
Đăng ký xác nhận nội dung quảng cáo
Những quy định trên giúp các cơ sở yên tâm trong việc kinh doanh và mang lại
nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên có rất ít công ty quảng cáo thực phẩm chức
năng thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp khi quảng cáo
đã “phóng đại” công dụng của thực phẩm chức năng hoặc quảng cáo nói quá giá trị của
17
sản phẩm nên rất dễ gây hiểu nhầm cho người tiêu dùng.
5.3 Hoạt động quản lý và những vấn đề bất cập trong quản lí thực phẩm chức năng:
5.3.1 Hoạt động quản lý
Đánh giá về công tác phối hợp trong những năm vừa qua Cục An toàn thực phẩm
thấy rằng bước đầu chúng ta đã có những sự phối hợp tuy nhiên hiệu quả và tần suất chưa
được cao, chưa đáp ứng được những yêu cầu quản lý, cụ thể là tình trạng vi phạm quảng
cáo TPCN nhất là trên các trang mạng và 1 số cơ quan phát hành quảng cáo vẫn còn diễn
biến rất phức tạp gây ảnh hưởng đến quyền lợi và sức khỏe của người tiêu dùng và quyền
lợi của các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất TPCN. Cho nên để tăng cường sự phối
hợp cũng như ngăn chặn việc quảng cáo TPCN không đúng quy định thì trong thời gian
tới Cục ATTP đề nghị các cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông phối
hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan đơn vị của Bộ Y tế trong đó trực tiếp là Cục ATTP
và Thanh tra Bộ Y tế, cụ thể:
– Đề nghị Cục Xuất bản in phát hành, Bộ TTTT có công văn tới các nhà xuất bản,
các Sở Thông tin & Truyền thông đề nghị phải thẩm định chặt chẽ nội dung quảng cáo
cáo TPCN trước khi phát hành các ấn phẩm và thực hiện đúng các quy định của pháp
luật: chỉ phát hành các ấn phẩm quảng cáo TPCN đã được cơ quan chức năng thẩm định
nội dung.
– Cục ATTP sẽ có buổi cung cấp thông tin tại giao ban báo chí cho Tổng biên tập
các báo về thực trạng quản lý hoạt động quảng cáo TPCN hiện nay, những nội dung vi
phạm chủ yếu, nguyên nhân vi phạm, thực trạng xử lý vi phạm, những thuận lợi khó khăn
trong xử lý vi phạm và kiến nghị trong thời gian tới.
– Cục ATTP, Thanh tra Bộ Y tế sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ
Thông tin và Truyền thông để thành lập các đoàn thanh tra liên ngành trên diện rộng
gồm đại diện Cục ATTP, Thanh tra Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông (Thanh tra
Bộ, cục Báo chí, Cục Xuất bản in phát hành) xuống Sở Y tế, Sở Thông tin và Truyền
thông để thanh tra việc quảng cáo tại các địa phương.
Để bảo vệ quyền lợi và sức khỏe cho người tiêu dùng, Bộ Y tế đã có công văn số
7234/QĐ-BYT đề nghị Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo
18
Sở Y tế, UBND cấp quận, huyện và các cơ quan chức năng trên địa bàn triển khai các nội
dung như sau:
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm
chức năng về các nội dung như: xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực
phẩm, ghi nhãn, kiểm nghiệm định kỳ sản phẩm thực phẩm, cơ sở đủ điều kiện vệ
sinh an toàn thực phẩm;
Kiểm tra, giám sát việc quảng cáo thực phẩm chức năng trên địa bàn, giám sát
chặt chẽ việc tổ chức hội thảo giới thiệu TPCN theo quy định của pháp luật. Xử lý
nghiêm việc lợi dụng hội thảo giới thiệu sản phẩm để khám chữa bệnh tư vấn trái
phép, bán và giới thiệu TPCN như thuốc chữa bệnh.
Phổ biến, hướng dẫn người dân chỉ mua các sản phẩm thực phẩm chức năng khi
thực sự có nhu cầu và dùng đúng hướng dẫn sử dụng. Không sử dụng sản phẩm
theo cách truyền miệng khi không hiểu rõ về sản phẩm.
Công khai tên cơ sở vi phạm, nội dung vi phạm trên các phương tiện thông tin đại
chúng theo quy định của pháp luật.
Hiện Bộ đã triển khai 02 đoàn thanh tra, kiểm tra về ATTP trong sản xuất, kinh
doanh, nhập khẩu và quảng cáo thực phẩm chức năng tại Hà Nội, Nam Định, Hải
Dương, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Mình và
tiếp tục chỉ đạo các địa phương, đơn vị tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra an
toàn thực phẩm, đặc biệt là các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng
nhằm từng bước lập tại trật tự kỷ cương trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh
thực phẩm, góp phần làm tốt công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
5.2.3 Bất cập trong quản lí:
5.2.3.1 Xem quảng cáo, không biết là thuốc hay thực phẩm”
Ông Trần Quang Trung, Cục trưởng Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm cho biết, hiện
nay trong quản lý mặt hàng này còn tồn tại nhiều bất cập. Trong đó có vấn đề ghi nhãn
thực phẩm chức năng.
“Ví dụ như có loại thực phẩm chức năng được ghi nhãn là vitamin C 500 trong khi
19
đó thành phần vitamin C chỉ là 5gr. Con số 500 được viết to, rõ ràng dễ khiến người tiêu
dùng nhầm tưởng là loại vitamin C 500gr”, ông Trung dẫn chứng.
Ngoài ra mặt hàng này cũng không bắt buộc thử nghiệm lâm sàng và cơ quan quản
lý cũng chưa ban hành được quy định ngưỡng thực phẩm thông thường và thực phẩm bổ
sung.
Trước những bất cập đang tồn tại, tới đây cơ quan quản lý sẽ kiểm soát chặt chẽ
hơn sản phẩm này, đảm bảo giữ ổn định, đồng thời phát triển nhưng phát triển trong quỹ
đạo. “Chúng tôi đang đôn đốc ghi nhãn TPCN. Thông tư ghi nhãn sẽ tác động tới toàn bộ
doanh nghiệp. Sẽ quản lý chặt hơn”, ông Long nói.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế, tình trạng “lạm dụng, coi TPCN là thần dược” là do
thiếu những bằng chứng khoa học, nghiên cứu, đánh giá về nó.
“Hiện những minh chứng, bằng chứng về mặt khoa học có tính thuyết phục của TPCN
còn rất ít, thậm chí có thể nói chưa có công trình nghiên cứu khoa học thực sự đánh giá
đúng bản chất TPCN”, Thứ Trưởng Bộ Y tế nói.
Thứ trưởng Long cũng đề cập đến tình trạng quảng cáo vượt quá công dụng của
sản phẩm. Trên 50% sai phạm về TPCN liên quan đến quảng cáo. Sai phạm chủ yếu là ở
quảng cáo trên các báo đài địa phương
Doanh nghiệp nói quá công dụng của sản phẩm, quảng cáo không đúng với nội
dung được cho phép, sử dụng những hình ảnh, thông điệp gây nhầm lẫn giữa thuốc và
thực phẩm chức năng. “Có lần cố ngồi xem quảng cáo một loại sản phẩm, không phân
biệt được đó là thuốc hay thực phẩm chức năng”, ông Nguyễn Thanh Long, chia sẻ.
Cục An toàn vệ sinh thực phẩm hoàn toàn biết và hiểu rằng chính tình trạng quảng
cáo này khiến người tiêu dùng hiểu nhầm sản phẩm là thuốc điều trị chữa bệnh. Nhưng
theo quy định của phát luật, những vi phạm này không bị rút số đăng kí, nên Cục chỉ có
thể gửi công văn đến cơ quan báo chí quảng cáo, yêu cầu doanh nghiệp thu hồi từ rơi, nội
dung quảng cáo.
5.2.3.2″Thần dược” hỗ trợ đắt hơn cả giá thuốc
20
Một bất cập nữa phải kể tới, đó là hiện chưa có quy định bắt buộc công bố định
lượng của sản phẩm. “Ví như một số phảm phẩm như sâm Hàn Quốc, đông trùng hạ thảo
hiện đang được bán rất nhiều ở Việt Nam nhưng chúng ta không có kiểm tra định lượng
mà chỉ dựa vào kết quả định lượng của nước xuất xứ. Còn sản phẩm trong nước thì yêu
cầu nhà sản xuất công bố và chịu trách nhiệm. Nguyên nhân là vì TPCN không bắt buộc
kiểm nghiệm lâm sàng như thuốc”, ông Trung nói.
Ngoài ra, vấn đề công bố công dụng, muốn chứng minh có hiệu quả thực sự như
thuốc phải tiến hành thử nghiệm lâm sàng. Đã có hiện tượng doanh nghiệp làm kiểm định
tại cơ sở A không đạt thì sang cơ sở B và có chứng nhận đạt. Cơ quan chức năng yêu cầu
một trung tâm kiểm nghiệm của nhà nước thực hiện thì trung tâm này cho biết không có
chức năng đó.
Tới đây Bộ Y tế cũng sẽ đặt nặng vấn đề hậu kiểm. Theo đó, dù định lượng không
đúng với công bố nhưng cũng phải có giới hạn (vì thực phẩm không phải là thuốc) có thể
dao động trong hành lang nào đó. Chúng tôi sẽ trao đổi với cơ quan quản lý, nhà khoa
học, hiệp hội để tới đây khi ban hành thông tư hướng dẫn nó đi vào cuộc sống, đi đúng và
quản lý đúng”, Thứ trưởng khẳng định.
Ngoài khó khăn trong việc quản lý quảng cáo TPCN, một vấn đề cũng khiến nhà
quản lý và người dân đau đầu, đó là giá thành các loại TPCN rất đắt, có những loại dù
quảng cáo có tác dụng “hỗ trợ điều trị” chứ không phải thuốc điều trị nhưng giá bán cao
hơn cả giá thuốc.
“Về giá bán, nếu chúng ta coi là TPCN thuốc thì lập tức Bộ Y tế sẽ quản lý theo
giá thuốc. Nhưng đây là thực phẩm và thực phẩm thì không do Bộ Y tế quản lý giá.
Không thể đòi hỏi Bộ Y tế quản lý giá thực phẩm chức năng”, Thứ trưởng Nguyễn Thanh
Long bày tỏ.
Và cuối cùng, mặc dù luật hiện hành được dựa trên tiêu chuẩn của Codex (Ủy ban
Tiêu chuẩn hoá thực phẩm Quốc tế) nhưng chưa có một chế tài quản lý nào thực sự hữu
hiệu.
21
Hiện các cơ quan quản lý mới đang đệ trình xây dựng đề án phát triển TPCN, đang
tham khảo các văn bản pháp luật của các quốc gia khác (tập trung vào công dụng của sản
phẩm, luật ghi nhãn…) để từ đó sẽ có kiến nghị sửa đổi như bắt buộc phải ghi nhãn
TPCN trên sản phẩm sao cho “khoa học, chính xác, trung thực” như phát biểu của
PGS.TS Lê Văn Truyền, Chuyên gia cao cấp dược học.
Phát biểu tổng kết hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long, cho rằng bất cập
trong quản lý TPCN hiện nay có nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân cơ bản,
đó là phát triển thị trường TPCN của chúng ta quá nhanh. Trong giai đoạn các cơ quan
quản lý chưa theo kịp, nhận thức của cộng đồng, của chính đội ngũ y tế chúng ta chưa
theo kịp vấn đề này.
VI. Ví dụ về sai phạm trong kinh doanh đa cấp TPCN:
6.1 Amway
Là một tập đoàn có trụ sở chính tại bang Michigan, Mỹ, sử dụng marketing trực
tiếp MLM – mutil level marketing (tại một số quốc gia, Amway sử dụng hình thức bán
hàng trực tiếp hoặc bán hàng đa cấp) để bán nhiều loại hàng khác nhau, chủ yếu là hàng
liên quan đến lĩnh vực sức khỏe, thẩm mỹ và hàng tiêu dùng.
Được thành lập vào năm 1959 bởi hai doanh nhân người Mỹ Jay Van
Andel và Rich DeVos, đến nay Amway đang hoạt động tại hơn 109 quốc gia và vùng
lãnh thổ với 21.000 nhân viên trên toàn cầu. Công ty đã đạt mức tăng trưởng bán hàng
9,5%, đạt 11,3 tỷ đô la Mỹ trong năm kết thúc ngày 31 tháng 12 năm 2012.
Tại Việt Nam, Amway xây dựng chương trình bán hàng theo hướng đa cấp, có
2 nhà máy sản xuất tại khu Công nghiệp Amata, Biên Hòa, Đồng Nai và khu Công
nghiệp Việt Nam – Singapore (VSIP) II, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Amway hiện
là thành viên liên kết của Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam.
22
Hình 6.1. Chân dung “khổng lồ đa cấp” Công ty Amway
Hành vi vi phạm của công ty Amway:
Tại Công ty TNHH Amway Việt Nam, kết quả kiểm tra cho thấy công ty này đã
không xuất trình được bằng chứng chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ thông báo tới một
số Sở Công Thương đối với các lần sửa đổi bổ sung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
bán hàng đa cấp lần thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6, thứ 7, tại các tỉnh như Cà Mau, Đồng Nai,
Khánh Hòa, Bình Định, Bình Dương, Lào Cai, Long An, Hòa Bình, Hưng Yên…
Hành vi này có dấu hiệu vi phạm quy định tại Điều 17 Nghị định 42 của Chính phủ.
Bên cạnh đó, Amway Việt Nam còn thực hiện đào tạo kiến thức cơ bản cho nhà
phân phối thông qua hệ thống đào tạo trực tuyến tại website www.welcome2amway.com
nhưng chưa có biện pháp chặt chẽ để đảm bảo nhà phân phối theo dõi và nắm bắt toàn bộ
nội dung đào tạo cơ bản.
6.2 Công ty Thiên Ngọc Minh Uy
Được thành lập ngày 30/6/2006, đại diện pháp luật là bà Lâm Nữ giữ chức vụ
Giám đốc. Công ty có trụ sở tại Hà Nội và hai chi nhánh ở TP HCM và Đà Nẵng. Theo
23
Bộ Công Thương, Thiên Ngọc Minh Uy đã đăng ký kinh doanh 139 sản phẩm và bộ sản
phẩm trong đó có 37 thực phẩm chức năng, 77 mỹ phẩm, 8 sản phẩm may mặc, 17 sản
phẩm kim khí điện máy.
Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh vừa ký kết luận kiểm tra đối với hai công ty đa
cấp gồm Công ty TNHH Amway Việt Nam và Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy.
Hình 6.2.Chính thức công bố kết quả thanh tra Thiên Ngọc Minh Uy
Hành vi vi phạm của Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy:
Cụ thể, tại Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy, Bộ Công Thương phát hiện hàng
loạt vi phạm và có dấu hiệu vi phạm như: Một số sản phẩm thực phẩm chức năng tại kho
của công ty có nhãn gốc chưa đúng với nhãn gốc đã đăng ký với Cục An toàn thực phẩm
(Bộ Y tế), có dấu hiệu vi phạm quy định về ghi nhãn sản phẩm và lưu thông hàng hóa
chưa đủ điều kiện trên thị trường.
Một số hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp của công ty ký với nhà phân phối
không ghi đầy đủ thông tin của nhà phân phối theo quy định.
24
Công ty Thiên Ngọc Minh Uy chưa thực hiện việc đào tạo cơ bản, cấp chứng chỉ
đào tạo cơ bản về bán hàng đa cấp và cấp thẻ thành viên mạng lưới bán hàng đa cấp theo
quy định cho toàn bộ nhà phân phối đang hoạt động. Ngoài ra, đoàn kiểm tra phát hiện
trường hợp nhà phân phối không có tên trong danh sách đào tạo cơ bản về bán hàng đa
cấp của công ty nhưng vẫn được công ty cấp chứng chỉ đào tạo cơ bản về bán hàng đa
cấp.
Công ty không xuất trình được bằng chứng chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ
thông báo tới một số Sở Công Thương đối với các lần sửa đổi bổ sung giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp lần thứ 3, thứ 4 và thứ 5 (Hậu Giang, Cần Thơ, Phú
Thọ, Bắc Ninh…).
Năm 2015, công ty đã không giám sát kịp thời, để cho cơ sở Thiên Phúc – Ân Thi
tại Cốc Ngang, Phạm Ngũ Lão, Kim Động, Hưng Yên thực hiện không đúng nghĩa vụ
hoàn lại tiền khi mua lại hàng hóa từ nhà phân phối.
Đối với các sản phẩm mỹ phẩm Kang Yi Dao, công ty cung cấp thêm dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, cụ thể là cử nhân viên hướng dẫn cách sử dụng và sử dụng sản phẩm
để massage cho khách hàng theo các liệu trình tại công ty hoặc một số đại lý của công ty.
Mặc dù công ty không thu phí hướng dẫn và massage sản phẩm mà khách đã mua, việc
cung cấp dịch vụ massage, chăm sóc sức khỏe kèm theo dòng sản phẩm mỹ phẩm Kang
Yi Dao có nhiều khả năng gây hiểu nhầm là công ty kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức
khỏe theo phương thức đa cấp, không phù hợp với đối tượng kinh doanh bán hàng đa cấp.
Cũng theo kết luận của Bộ trưởng Công Thương, công ty này đã ký một hợp đồng, cấp
một mã số khách hàng cho nhà phân phối nhưng cho phép nhà phân phối có nhiều mã số
đơn hàng và hưởng quyền lợi theo chương trình trả thưởng đối với các mã số đơn hàng
đó.
Năm 2015, công ty đã thực hiện nhiều chương trình khuyến mại dưới dạng tặng
tiền mặt cho các nhà phân phối theo phương thức đa cấp đối với từng đơn hàng, theo đó,
giá trị tiền mặt khuyến mại mà nhà phân phối có thể được hưởng từ từng đơn hàng có thể
vượt quá giá trị của đơn hàng đó.
25
Đặng Quế DungPhan Thị Hoàng XuânTrần Xuân Tảo MaiNguyễn Thị Thủy TiênNHIỆM VỤMỤC LỤCMỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………………….. 5I. KHÁI QUÁT VỀ HÌNH THỨC KINH DOANH ĐA CẤP : …………………………….. 61.1 Khái niệm : …………………………………………………………………………………………………. 61.2 Đặc điểm : …………………………………………………………………………………………………… 61.3 Vai trò : ………………………………………………………………………………………………………. 7II. THỊ TRƯỜNG THỰC PHẨM CHỨC NĂNG ……………………………………………….. 72.1 Tổng quan thị trường TPCN tại Nước Ta ……………………………………………………… 72.2 Nguyên nhân khiến thị trường bùng phát : ……………………………………………………… 82.3 Hiện trạng kinh doanh thương mại TPCN trên Thế giới ………………………………………………… 9III. CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI, TIÊU CỰC TRONG PHƯƠNG THỨC KINHDOANH ĐA CẤP TPCN …………………………………………………………………………………….. 93.1 Một số yếu tố còn sống sót ……………………………………………………………………………. 93.2 Tác động xấu đi của hành vi kinh doanh thương mại đa cấp TPCN …………………………… 113.2.1 Đối với doanh nghiệp kinh doanh thương mại đa cấp …………………………………………………… 113.2.2 Đối với người tham gia, tiêu dùng …………………………………………………………….. 113.2.3 Đối với xã hội …………………………………………………………………………………………. 12IV. KHẢO SÁT CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VỀ TPVN ………………………………….. 134.1 Nhu cầu tiêu dùng TPCN ………………………………………………………………………….. 134.2 Các yếu tố tác động ảnh hưởng đến người mua TPCN ………………………………………………… 14V. CÁC HÌNH THỨC KINH DOANH TPCN HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ QUYĐỊNH KHI KINH DOANH TPCN …………………………………………………………………….. 175.1 Các hình thức kinh doanh thương mại TPCN lúc bấy giờ ……………………………………………………. 175.2 Những pháp luật thiết yếu trước khi kinh doanh thương mại TPCN …………………………………. 175.3 Hoạt động quản trị và những yếu tố chưa ổn trong quản lí thực phẩm chức năng : …………………………………………………………………………………………………………………………. 185.3.1 Hoạt động quản trị ……………………………………………………………………………………. 185.2.3 Bất cập trong quản lí : ………………………………………………………………………………. 195.2.3.1 Xem quảng cáo, không biết là thuốc hay thực phẩm ” ……………………………… 195.2.3.2 ” Thần dược ” tương hỗ đắt hơn cả giá thuốc ………………………………………………… 20VI. VÍ DỤ VỀ SAI PHẠM TRONG KINH DOANH ĐA CẤP TPCN : ……………… 226.1 Amway …………………………………………………………………………………………………….. 226.2 Công ty Thiên Ngọc Minh Uy ……………………………………………………………………. 23K ẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………………. 26T ÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………………………….. 26M Ở ĐẦUỞ Nước Ta thực phẩm chức năng tuy mới Open gần đây trong sự tiếp đón dèdặt của dân chúng nhưng nó cũng đã lan dần như một làn sóng ngầm rộng khắp. Tâm lýđám đông của người Việt cũng làm cho Nước Ta trở thành ” miền đất hứa ” cho kiểu bánhàng đa cấp. Những vấn nạn về xã hội và môi trường tự nhiên, ám ảnh về vệ sinh bảo đảm an toàn thựcphẩm và nỗi lo về sức khoẻ bệnh tật khiến cho thực phẩm chức năng trở thành niềm hyvọng, là cứu cánh cho mỗi người và mỗi mái ấm gia đình. Tuy nhiên, cần có sự hiểu biết đúngđắn về thực phẩm chức năng để có thái độ hành xử đúng đắn, không bài xích và cũngkhông mê muội. I. Khái quát về hình thức kinh doanh thương mại đa cấp : 1.1 Khái niệm : Kinh doanh đa cấp ( tiếng anh là Multi-level Marketing ) hoặc kinh doanh thương mại theomạng ( Network Marketing ) hay bán hàng đa cấp ( tên gọi thông dụng ở Nước Ta ) làthuật ngữ chung dùng để chỉ một phương pháp marketing loại sản phẩm kinh doanh thương mại / bán hàngtrực tiếp đến tay người tiêu dùng, họ hoàn toàn có thể trực tiếp đến mua hàng tại công ty ( hoặc quamột nhà phân phối duy nhất ) mà không phải trải qua những đại lý hay shop kinh doanh bán lẻ. Nhờ vậy mà hoàn toàn có thể tiết kiệm ngân sách và chi phí được nhiều ngân sách từ sân bãi, kho chứa, luân chuyển hànghóa, khuyễn mãi thêm, quảng cáo và những chương trình tiếp thị khác. Số tiền này thay vào đó, được trả thưởng cho nhà phân phối và tăng cấp, nâng cấp cải tiến mẫu sản phẩm. đây là phương thứctiếp thị tận dụng chính thói quen của người tiêu dùng : khi sử dụng mẫu sản phẩm, dịch vụ tốtthường san sẻ cho người thân trong gia đình và bè bạn. Hình 1.1. Sơ đồ mạng lưới phân phối của kinh doanh thương mại đa cấp1. 2 Đặc điểm : Bán hàng đa cấp là phương pháp tiếp thị để kinh doanh bán lẻ sản phẩm & hàng hóa. Người tham gia tiếp thị sản phẩm & hàng hóa tại nơi ở, nơi thao tác của người tiêu dùng Người tham gia được hưởng quyền lợi từ việc bán hàng và tạo lập mạng lưới bán hàng1. 3 Vai trò : Đối với người tiêu dùng Mua hàng trực tiếp từ người sản xuất Tránh nạn hàng giả Tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Đối với doanh nghiệp Tiết kiệm được ngân sách quảng cáo Cắt giảm những ngân sách bán hàng : ngân sách thuê mặt phẳng tọa lạc, ngân sách luân chuyển Một hình thức PR mẫu sản phẩm hữu hiệuII. Thị trường thực phẩm chức năng2. 1 Tổng quan thị trường TPCN tại Việt NamTheo Hiệp hội Thực Phẩm Chức Năng, thực phẩm chức năng là mẫu sản phẩm tương hỗ cácchức năng của những bộ phận trong khung hình, cóphẩm chức năng ( TPCN ) là loại sản phẩm hỗ trợhoặc không có tính năng dinh dưỡng, tạo cho cơthể thực trạng tự do, tăng sức đề kháng, giảm rủi ro tiềm ẩn và mối đe dọa bệnh tật. Tác dụng củaTPCN là có năng lực cải tổ sức khỏe thể chất và làmgiảm thiểu rủi ro tiềm ẩn và tai hại bệnh tật, baogồm thực phẩm bổ trợ, thực phẩm bảo vệ sứcHình2. 1. Thực phẩm chức năng bàybán trong một nhà thuốc tựHình2. 1. Thực phẩm chức năng bày bántrong một nhà thuốckhoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học. Nó khôngphải là trị liệu y học nhằm mục đích mục tiêu điều trịhay cứu chữa bệnh tật của con người. Từ năm 1999, TPCN từ những nước mở màn nhậpkhẩu chính thức vào Nước Ta. Đồng thời, do có sẵn nguồn nguyên vật liệu, có lịch sử vẻ vang truyền kiếp nền y học truyền thống, có sẵndây truyền sản xuất thuốc và đội ngũ công nhân chuyên nghiệp và trào lưu phát triểnTPCN trên quốc tế, những công ty dược, những cơ sở sản xuất thuốc Y học truyền thống bắt đầuchuyển sang sản xuất TPCN. Tính đến cuối năm 2012, gần như là cả ngành dược Việt Namđã lao vào nghành TPCN, với sự tham gia của 1,781 doanh nghiệp. Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại thực phẩm chức năng năm 2000 là 13 cơ sở, đến cuối 2012 là 1,552 cơ sở, với hơn 5,500 loại sản phẩm. Năm 2013, số cơ sở SXKD TPCNđã tăng lên 3,512 cơ sở ( tăng 226 % so với 2012 ), với 6,851 mẫu sản phẩm ( tăng 124 % ). Trongđó, 80 % loại sản phẩm TPCN là nhập khẩu – 20 % mẫu sản phẩm sản xuất trong nước. Sản phẩmxuất khẩu đang ngày càng tăng nhanh gọn, tăng 172 % tiến trình 2012 – 2013, trong khi sảnphẩm sản xuất trong nước giảm 23 % tiến trình 2012 – 2013. Số Cơ sở SXKD TPCNSố Sản phẩm TPCNHình 1.2. Số cơ sở kinh doanh thương mại TPCN và số lượng loại sản phẩm TPCN năm 2005 – 2013 ( Nguồn : Thương Hội TPCN Nước Ta năm trước ) 2.2 Nguyên nhân khiến thị trường bùng phát : Thứ ( 1 ) là sự bùng nổ những bệnh của xã hội công nghiệp và ô nhiễm thiên nhiên và môi trường. Thứ ( 2 ), người tiêu dùng đang hướng về một lối sống lành mạnh, chăm sóc hơn đếncác loại sản phẩm vạn vật thiên nhiên và những giải pháp phòng bệnh. Thứ ( 3 ), công chúng ngày càng chăm sóc hơn đến mối quan hệ giữa thực phẩm, chếđộ dinh dưỡng và sức khỏe thể chất. Thứ ( 4 ), nguyên do quan trọng nhất, nhận thức về tầm quan trọng tự bảo vệ sứckhỏe và phòng chống bệnh tật tương quan đến dinh dưỡng và lối sống. Thứ ( 5 ), những tác dụng điều tra và nghiên cứu khoa học về quyền lợi của rau quả, ngũ cốc trongphòng bệnh, những chất chống ô xy hóa và những hợp chất toàn phần của thực vật có tácdụng tốt so với sức khỏe thể chất, ( theo PGS – tiến sỹ Lê Văn Truyền ) 2.3 Hiện trạng kinh doanh thương mại TPCN trên Thế giớiTheo PGS-TS Lê Văn Truyền thì 70 % người dân ở Mỹ tiếp tục sử dụngTPCN để phòng bệnh. Theo thống kê, tại Mỹ có khoảng chừng 55.000 loại thực phẩm chứcnăng ( TPCN ), so với những nước trên quốc tế thì Mỹ là vương quốc mà TPCN được ưa chuộngnhất. Mỗi năm người Mỹ chi ra một khoản tiền không nhỏ dành cho TPCN, khoảng chừng 32 tỷ USD. Theo Ngân hàng Thế giới ( World Bank, 2006 ), thị trường TPCN ở Mỹ chiếm35 %, Châu Âu 32 %, Nhật Bản 25 % và phần còn lại của những nước trên quốc tế là 8 %. Thị trường TPCN tại Mỹ năm 2007 là 27 tỉ USD và năm 2013 được Dự kiến tăng lên 90 tỉ USD. Xu thế tăng trưởng TPCN trên quốc tế và khu vực ASEAN cũng tác động ảnh hưởng mạnhmẽ vào thị trường Việt Nam lẽ đương nhiên. Tính đến 2013 thì có 39 vương quốc xuất khẩu5, 518 mẫu sản phẩm thực phẩm chức năng vào thị trường Nước Ta. Trong đó những sản phẩmthực phẩm chức năng của Mỹ chiếm 18.15 % thị trường TPCN ở Nước Ta, sau đó là HànQuốc, Úc, Trung Quốc, Pháp, Malaysia, Xứ sở nụ cười Thái Lan, Canada, Đức … III. Các yếu tố sống sót, xấu đi trong phương pháp kinh doanh thương mại đa cấp TPCN3. 1 Một số yếu tố còn tồn tạiĐầu tiên là nhận thức chưa khá đầy đủ về TPCN : từ định nghĩa, phân loại, phân biệt, tính năng, quản trị TPCN trên quốc tế và ở Nước Ta. Các pháp luật pháp lý về TPCNcòn thiếu và chưa rất đầy đủ, đặc biệt quan trọng là những tiêu chuẩn và pháp luật quản lí. Cách cung cấpkiểu bán hàng đa cấp với mục tiêu lôi kéo người mua bằng mọi giá để kiếm lợi dễ mangđến những thông tin thiếu đúng mực và ngộ nhận. Nhất là với những ” tiếp thịviên ” không có kỹ năng và kiến thức y học, thậm chí còn thiếu kiến thức và kỹ năng văn hoá thường thì thì sựtruyền đạt trình làng dễ thiên lệch và sai sót. Tiếp đến là những cơ sở, công ty, tổ chức triển khai, cá thể sản xuất còn mang tính riêng không liên quan gì đến nhau, trước mắt vì quyền lợi riêng của mình, chưa có sự link, tổng hợp để tạo ra sức mạnh dâychuyền và vững chắc. Người tiêu dùng sử dụng TPCN còn thấp, mục tiêu sử dụng phần nhiều là để hỗ trợchữa bệnh. Kết quả tìm hiểu của Cục ATTP ( 2011 ) cho thấy : Người sử dụng TPCN đa phần là người trưởng thành đang có bệnh. Tỷ lệ sử dụng TPCNở Thành Phố Hà Nội là 68.1 %, ở Tp. Hồ Chí Minh là 43.0 %. Thời gian sử dụng mới chỉ từ 1-12 thángQuảng cáo TPCN còn sai phạm : Kết quả tìm hiểu của Cục ATTP ( 2011 ) cho thấy : Cứ 10 quảng cáo trên truyền hình thì 2 quảng cáo chưa có giấy phép quảng cáo ( 20 % ). Cứ 10 quảng cáo đã có giấy phép nhưng có 5 quảng cáo còn sai về nội dung so với côngbố tiêu chuẩn ( 50 % ). Cuối cùng là ở Nước Ta, bác sỹ không được phép kê đơn thực phẩm chức năngtrong đơn thuốc. Chính vì điều này mà lâu nay thực phẩm chức năng được nhiều cá thể, tổ chức triển khai tự hiện quảng cáo trên webste, mạng xã hội, .. và cả kênh phân phối, tư vấn trựctiếp của những người không có kiến thức và kỹ năng trình độ trong nghành nghề dịch vụ y tế ( thông quamạng lưới bán hàng đa cấp ). Cùng với sự bùng phát của những cơ sở, cá thể kinh doanhTPCN, mức tiêu tốn cho quảng cáo trực tuyến những loại sản phẩm TPCN những năm qua luônđứng đầu trong những mẫu sản phẩm thực phẩm nói chung, cao hơn cả mức chi quảng cáo chosản phẩm Sữa và Đồ uống có cồn / không cồn. Một số cơ sở kinh doanh thương mại đã tổ chức triển khai đi những vùng nông thôn link với hội phụ nữ, hội người cao tuổi tổ chức triển khai tuyên truyền, khám bệnh, xét nghiệm rồi bán mẫu sản phẩm vớiphương thức “ quét ” một lần, đi qua không để lại đầu mối để liên hệ. Các hoạt động giải trí nàyvi vi phạm khám chữa bệnh và những lao lý quản trị của ngành y tế. 103.2 Tác động xấu đi của hành vi kinh doanh thương mại đa cấp TPCN3. 2.1 Đối với doanh nghiệp kinh doanh thương mại đa cấp “ Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa ”, chính những doanh nghiệp có hành vi kinhdoanh đa cấp bất chính đã làm vấy bẩn bộ mặt của những doanh nghiệp kinh doanh thương mại chânchính. Do ngày càng nhiều người tham gia bị dụ dỗ, bị lửa hòn đảo để rồi trở thành nạn nhâncủa kinh doanh thương mại đa cấp bất chính thì tiếng xấu về kinh doanh thương mại đa cấp ngày càng tăng. Thêm vào đó là tâm ý lo lắng, dè chừng của người tiêu dùng so với doanh nghiệp đa cấpvà những loại sản phẩm của doanh nghiệp, cùng với tâm ý vơ cả nắm không cần phân biệt làdoanh nghiệp kinh doanh thương mại đa cấp chân chính hay bất chính hiện hữu trong hầu hết ngườitiêu dùng. Chính thế cho nên, những doanh nghiệp kinh doanh thương mại đa cấp lúc bấy giờ đã khó khăn vất vả trongviệc tạo niềm tin với người tiêu dùng, nay, gặp tiếng xấu này lại càng khó khăn vất vả hơn. Không những vậy, hành vi bất chính của những doanh nghiệp này còn làm cho môitrường cạnh tranh đối đầu trở nên không lành mạnh, trong khi doanh nghiệp kinh doanh thương mại chânchính tạo dựng tên thương hiệu của mình trải qua việc không ngừng tiếp thị thoáng rộng vànâng cao chất lượng mẫu sản phẩm thì doanh nghiệp bất chính lại hủy hoại thành quả đó, không những vậy, còn tạo tiếng xấu, gây những nhầm lẫn hiểu sai về phương pháp kinhdoanh chân chính này. luật sư uy tín3. 2.2 Đối với người tham gia, tiêu dùngHơn ai hết, người tham gia chính là những người tiên phong bị thiệt hại trực tiếp, chính người tham gia là người mất không một khoản tiền lớn để hoàn toàn có thể trở thành thànhviên của mạng lưới. Đối với mỗi người nông dân, khoản tiền này là từ mồ hôi, nước mắtlà thu nhập lớn lao của họ, nên khi mất đi, họ sẽ cố gắng nỗ lực lấy lại vốn bằng cách lôi kéonhững người khác ; nhưng họ đâu có biết rằng, rồi người khác cũng bị lừa. Không nhữngmất đi niềm tin trong mắt bạn hữu, người thân trong gia đình, những người đã bị dụ dỗ vào hình thức bấtchính này mà còn bị mang tiếng là lừa đảo, lừa đảo vì đã dụ dỗ lôi kéo ngay chính ngườithân quen của mình và gian dối về những thông tin sai lầm đáng tiếc về hiệu quả của sản phẩmdo người tham gia bị doanh nghiệp phân phối một cách không đúng mực. Tiền mất, tật11mang là những gì mà người tham gia trong những công ty kinh doanh thương mại đa cấp bất chính phảihứng chịu, họ chỉ hoàn toàn có thể trách do bản thân quá cả tin, hám lợi hay do những doanh nghiệpnày quá phức tạp, xảo quyệt. Với người tiêu dùng, những doanh nghiệp bất chính thường tập trung chuyên sâu vào việc dụdỗ người tham gia hơn là việc nâng cao chất lượng mẫu sản phẩm. Vì vậy do đó, việc xuấthiện những doanh nghiệp kinh doanh thương mại đa cấp bất chính này làm cho người tiêu dùng hoangmang về chất lượng loại sản phẩm mình đang dùng, thêm vào đó hàng kém chất lượng, khôngđúng với những gì được tiếp thị sẽ Open ngày càng nhiều, việc người tiêu dùng bỏ rahàng trăm, hàng triệu hàng chục triệu để mua hàng nhưng không tương ứng với mứctiền ấy là cũng chuyện thường tình. Việc doanh nghiệp đưa ra những thông tin gian dốiđể ngưởi tiêu dùng mua loại sản phẩm là hành vi lừa đảo, nhưng hành vi này ngày càng tinhvi với nhiều chiêu thức, vì thế, không phải người tiêu dùng nào cũng đủ mưu trí, đủkiến thức và trình độ để phân biệt và không trở thành nạn nhân của hành vi kinh doanh thương mại đacấp bất chính. 3.2.3 Đối với xã hộiBất cứ hiện tượng kỳ lạ xấu đi nào Open thì từ từ toàn xã hội cũng phải gánhchịu hậu quả của nó. Kinh doanh đa cấp bất chính cũng vậy, hành vi này làm phá vỡ cácmối quan hệ tốt đẹp trong xã hội, vì kinh doanh thương mại đa cấp bất chính mà bè bạn, người quenthậm chí là những người thân trong gia đình trong mái ấm gia đình có khi không thèm nhìn mặt nhau. Conngười luôn trong trạng thái thiếu tín nhiệm, mất niềm tin với mọi người xung quanh, gây tâm lýlo sợ khi tham gia vào những mối quan hệ trong xã hội. Không những thế, bằng nhiều cáchthức khác nhau, cùng với những thủ đoạn lừa dối phức tạp trong kinh doanh thương mại đa cấp bấtchính làm ngày càng tăng số nạn nhân, số thiệt hại và cũng gia 1 số ít tội phạm như lừa đảochiếm đoạt gia tài, quảng cáo gian dối … làm cho xã hội vốn không ổn định nay càng nhiều bất ổnhơn. luat sư bao chuaTóm lại, kinh doanh thương mại đa cấp bất chính là một hành vi xấu đi ảnh hưởng tác động xấu đếncuộc sống của con người, từ cá thể, tổ chức triển khai đến toàn xã hội. Hành vi này đã và đangxuất hiện ngày càng nhiều, xâm lấn môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại của những nước trên quốc tế nói12chung và Nước Ta nói riêng. Chính thế cho nên việc ngăn ngừa và giải quyết và xử lý kịp thời hành vi bấtchính này là vô cùng thiết yếu, để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ cho những doanh nghiệp, người tiêudùng và toàn xã hội. IV. Khảo sát của người tiêu dùng về TPVNBáo cáo về người tiêu dùng Nước Ta 2013 cho thấy, sau những lo lắng về nềnkinh tế chưa không thay đổi và việc làm, sức khỏe thể chất là mối chăm sóc thứ ba của người tiêu dùngViệt Nam. Năm 2005, mức tiêu tốn cho dược phẩm của dân cư Nước Ta chỉ 10USD / người / năm, 10 năm sau, mức tiêu tốn cho sức khỏe thể chất đã tăng gần gấp 4 lần lên 38USD / người / năm, dự báo mức tiêu tốn sẽ đạt 85 USD / người / năm vào năm 2020.4.1 Nhu cầu tiêu dùng TPCNCác bệnh mãn tính chưa lây thông dụng gồm : tiểu đường, tim mạch, ung thư, xươngkhớp, dị ứng, tiêu hóa, thần kinh, tăng cân béo phì, bệnh về da, hô hấp, rối loạn chuyểnhóa, rối loạn thị lực … chưa thể phòng bệnh bằng vắc xin mà cần thực thi bổ trợ thôngqua những vitamin, những vi chất dinh dưỡng, khoáng chất, những chất chống ôxy hóa. Thựcphẩm chức năng không riêng gì phân phối dinh dưỡng cơ bản mà còn có chức năng phòngchống bệnh tật và tăng cường sức khỏe thể chất nhờ những chất chống ôxy hóa ( beta-caroten, lycopen, lutein, vitamin C, vitamin E. .. ), chất xơ và 1 số ít thành phần khác. Từ nguồn gốc bệnh mãn tính và quyền lợi của TPCN hoàn toàn có thể thấy, nhu yếu tiêu thụTPCN ngày càng tăng cao theo sự tăng trưởng của xã hội, những người dân thành thị cónhu cầu tiêu thụ cao hơn người dân nông thôn, những người lao động trí óc ( như buônbán kinh doanh thương mại, quản trị trong những nghành kinh tế tài chính, chính trị ) sẽ có nhu yếu cao hơnngười lao động chân tay, những người lớn tuổi hơn sẽ có nhu yếu tiêu thụ cao hơn ngườitrẻ tuổi, phái đẹp sẽ có nhu yếu cao hơn phái mạnh ( do chăm sóc về làm đẹp, sức khỏe thể chất bảnthân và mái ấm gia đình cao hơn ). 13T hực phẩmchức năngPhòngchốngbệnh tậtTăngcườngsức khỏeTPCN4. 2 Các yếu tố tác động ảnh hưởng đến người mua TPCNSố người sử dụng TPCN ngày càng tăng. Chỉ tính những người sử dụng TPCN qua kênhbán hàng đa cấp cho thấy : Năm 2005 có khoảng chừng 1 triệu người ở 23 tỉnh ( 1.1 % dân số ) sử dụng TPCN. Năm 2010 đã tăng lên 5,700,000 người ở khắp 63 tỉnh, thành phố ( chiếm6. 6 % dân số ) sử dụng TPCN. Cục An toàn thực phẩm đã tìm hiểu ( năm 2011 ) cho thấy ởTP. Hồ Chí Minh có 43 % số người trưởng thành và ở TP.HN có 63 % số người trưởngthành sử dụng TPCN. 14 ( Nguồn : Nielsen 2013 ) Hình4. 1. Các yếu tố tác động ảnh hưởng đến hành vi shopping loại sản phẩm dinh dưỡng. Theo nghiên cứu và điều tra của Nielsen, những yếu tố quan trọng có ảnh hướng đến quyếtđịnh mua loại sản phẩm dinh dưỡng là “ Thành phần khá đầy đủ dinh dưỡng ”, “ Giảm rủi ro tiềm ẩn mắcbệnh ”, “ Giá cả phải chăng ” và “ Được sự ghi nhận bởi những chuyên viên y tế ”. Khảo sát thị trường 1 số ít loại sản phẩm TPCN cho thấy, TCPN có giá từ vài trămngàn đồng cho đến vài triệu, khá cao so với thu nhập trung bình hàng năm của người tiêudùng là 24 triệu đồng / năm ( 2013 ). Bên cạnh đó, TPCN không giống như thuốc, không cótác dụng tức thì, người tiêu dùng phải sử dùng nhiều lần trong khoảng chừng thời hạn nhất dàimới có tính năng càng khiến ngân sách TPCN tăng cao. Với mức giá cao như lúc bấy giờ, khảnăng tiêu dùng TPCN ở những hộ mái ấm gia đình có thu nhập cao sẽ cao hơn những hộ gia đìnhcó thu nhập thấp hơn. 15M ột số mẫu sản phẩm về kinh doanh thương mại thực phẩm chức năngBi-JcareGiúp nuôi dưỡng sụn khớp, tạo chất nhờn, tăng độ bềnvà dẻo dai cho khớp, tăng sức mạnh link cơ gânsụn khớpBi – Q10Tăng cường sức khỏe thể chất tim mạch, tương hỗ điều trị cácbệnh tim mạch, huyết áp, thiểu năng mạch vành, suytim, nhồi máu cơ tim, tăng tuần hoàn não. Super Strengh H3Chống lão hóa, tăng cường sức khỏe thể chất. Làm đẹp điềuhòa huyết áp tim mạch, mỡ máu, sa sút trí tuệ, tiểuđường. Extra Gold Super SealBổ thận tráng dương, chống suy giảm sinh lý, chốngphì đại tiền liệt tuyến, tương hỗ điều trị vô sinh nam, tăngcường chất lượng đời sống tình dục, chống nam hóa, bất lực sinh lý, suy nhược khung hình. Sữa ong chúa Royal JellyLàm đẹp, chống suy nhược, điều hòa huyết áp, tăngcường sức khỏe thể chất. 16V igo A + Phục hồi năng lực sinh lý tự nhiên, suy nhược sinh lý, rốiloạn cường dương, chống lão hóa, giúp lê dài tuổi thọ, antoàn không có công dụng phụ. V. Các hình thức kinh doanh thương mại TPCN lúc bấy giờ và 1 số ít lao lý khi kinh doanhTPCNTừ ngày 15/1/2015, Thông tư 34 của Bộ Y tế về quản trị TPCN có hiệu lực thực thi hiện hành. Nộidung của thông tư này chú trọng vào việc pháp luật về quản trị TPCN gồm có kiểm soáthiệu quả hơn về chất lượng, độ bảo đảm an toàn của loại sản phẩm. Trong đó, lao lý rõ ràng hơn vềTPCN, phân loại, nhu yếu công bố về hiệu quả, liều lượng sử dụng, chống chỉ định, dẫn chứng khoa học … Đây là những yếu tố phát sinh trong quy trình tăng trưởng củangành TPCN trong những năm qua. 5.1 Các hình thức kinh doanh thương mại TPCN lúc bấy giờ Tổ chức hội nghị, hội thảo chiến lược ra mắt loại sản phẩm Kinh doanh đa cấp Phân phối kinh doanh nhỏ qua những nhà thuốc5. 2 Những pháp luật thiết yếu trước khi kinh doanh thương mại TPCN Đăng ký với cục bảo đảm an toàn thực phẩm cấp ghi nhận tiêu chuẩn mẫu sản phẩm Đăng ký xác nhận công bố tương thích pháp luật bảo đảm an toàn thực phẩm Đăng ký Giấy tiếp đón quảng cáo Đăng ký xác nhận nội dung quảng cáoNhững pháp luật trên giúp những cơ sở yên tâm trong việc kinh doanh thương mại và mang lạinhiều quyền lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên có rất ít công ty quảng cáo thực phẩm chứcnăng thực thi đúng và rất đầy đủ theo lao lý của pháp lý. Doanh nghiệp khi quảng cáođã “ phóng đại ” hiệu quả của thực phẩm chức năng hoặc quảng cáo nói quá giá trị của17sản phẩm nên rất dễ gây hiểu nhầm cho người tiêu dùng. 5.3 Hoạt động quản trị và những yếu tố chưa ổn trong quản lí thực phẩm chức năng : 5.3.1 Hoạt động quản lýĐánh giá về công tác làm việc phối hợp trong những năm vừa mới qua Cục An toàn thực phẩmthấy rằng trong bước đầu tất cả chúng ta đã có những sự phối hợp tuy nhiên hiệu suất cao và tần suất chưađược cao, chưa cung ứng được những nhu yếu quản trị, đơn cử là thực trạng vi phạm quảngcáo TPCN nhất là trên những trang mạng và 1 số cơ quan phát hành quảng cáo vẫn còn diễnbiến rất phức tạp gây ảnh hưởng tác động đến quyền lợi và nghĩa vụ và sức khỏe thể chất của người tiêu dùng và quyềnlợi của những doanh nghiệp kinh doanh thương mại, sản xuất TPCN. Cho nên để tăng cường sự phốihợp cũng như ngăn ngừa việc quảng cáo TPCN không đúng pháp luật thì trong thời giantới Cục ATTP ý kiến đề nghị những cơ quan chức năng của Bộ tin tức và Truyền thông phốihợp ngặt nghèo hơn nữa với những cơ quan đơn vị chức năng của Bộ Y tế trong đó trực tiếp là Cục ATTPvà Thanh tra Bộ Y tế, đơn cử : – Đề nghị Cục Xuất bản in phát hành, Bộ TTTT có công văn tới những nhà xuất bản, những Sở tin tức và Truyền thông đề xuất phải thẩm định và đánh giá ngặt nghèo nội dung quảng cáocáo TPCN trước khi phát hành những ấn phẩm và triển khai đúng những lao lý của phápluật : chỉ phát hành những ấn phẩm quảng cáo TPCN đã được cơ quan chức năng thẩm địnhnội dung. – Cục ATTP sẽ có buổi cung ứng thông tin tại giao ban báo chí truyền thông cho Tổng biên tậpcác báo về tình hình quản trị hoạt động giải trí quảng cáo TPCN lúc bấy giờ, những nội dung viphạm hầu hết, nguyên do vi phạm, tình hình giải quyết và xử lý vi phạm, những thuận tiện khó khăntrong giải quyết và xử lý vi phạm và yêu cầu trong thời hạn tới. – Cục ATTP, Thanh tra Bộ Y tế sẽ phối hợp với những cơ quan chức năng của BộThông tin và Truyền thông để xây dựng những đoàn thanh tra liên ngành trên diện rộnggồm đại diện thay mặt Cục ATTP, Thanh tra Bộ Y tế, Bộ tin tức và Truyền thông ( Thanh traBộ, cục Báo chí, Cục Xuất bản in phát hành ) xuống Sở Y tế, Sở tin tức và Truyềnthông để thanh tra việc quảng cáo tại những địa phương. Để bảo vệ quyền hạn và sức khỏe thể chất cho người tiêu dùng, Bộ Y tế đã có công văn số7234 / QĐ-BYT đề xuất Đồng chí quản trị Ủy ban nhân dân những tỉnh, thành phố chỉ đạo18Sở Y tế, Ủy Ban Nhân Dân cấp Q., huyện và những cơ quan chức năng trên địa phận tiến hành những nộidung như sau : Tăng cường công tác làm việc thanh tra, kiểm tra những cơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại thực phẩmchức năng về những nội dung như : xác nhận công bố tương thích lao lý bảo đảm an toàn thựcphẩm, ghi nhãn, kiểm nghiệm định kỳ loại sản phẩm thực phẩm, cơ sở đủ điều kiện kèm theo vệsinh bảo đảm an toàn thực phẩm ; Kiểm tra, giám sát việc quảng cáo thực phẩm chức năng trên địa phận, giám sátchặt chẽ việc tổ chức triển khai hội thảo chiến lược ra mắt TPCN theo lao lý của pháp lý. Xử lýnghiêm việc tận dụng hội thảo chiến lược ra mắt loại sản phẩm để khám chữa bệnh tư vấn tráiphép, bán và trình làng TPCN như thuốc chữa bệnh. Phổ biến, hướng dẫn người dân chỉ mua những loại sản phẩm thực phẩm chức năng khithực sự có nhu yếu và dùng đúng hướng dẫn sử dụng. Không sử dụng sản phẩmtheo cách truyền miệng khi không hiểu rõ về mẫu sản phẩm. Công khai tên cơ sở vi phạm, nội dung vi phạm trên những phương tiện đi lại thông tin đạichúng theo lao lý của pháp lý. Hiện Bộ đã tiến hành 02 đoàn thanh tra, kiểm tra về ATTP trong sản xuất, kinhdoanh, nhập khẩu và quảng cáo thực phẩm chức năng tại TP. Hà Nội, Tỉnh Nam Định, HảiDương, Thành Phố Bắc Ninh, Tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Mình vàtiếp tục chỉ huy những địa phương, đơn vị chức năng tăng cường công tác làm việc thanh tra, kiểm tra antoàn thực phẩm, đặc biệt quan trọng là những cơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại thực phẩm chức năngnhằm từng bước lập tại trật tự kỷ cương trong những hoạt động giải trí sản xuất, kinh doanhthực phẩm, góp thêm phần làm tốt công tác làm việc chăm nom, bảo vệ sức khỏe thể chất nhân dân. 5.2.3 Bất cập trong quản lí : 5.2.3. 1 Xem quảng cáo, không biết là thuốc hay thực phẩm ” Ông Trần Quang Trung, Cục trưởng Cục Vệ sinh bảo đảm an toàn thực phẩm cho biết, hiệnnay trong quản trị mẫu sản phẩm này còn sống sót nhiều chưa ổn. Trong đó có yếu tố ghi nhãnthực phẩm chức năng. “ Ví dụ như có loại thực phẩm chức năng được ghi nhãn là vitamin C 500 trong khi19đó thành phần vitamin C chỉ là 5 gr. Con số 500 được viết to, rõ ràng dễ khiến người tiêudùng nhầm tưởng là loại vitamin C 500 gr ”, ông Trung dẫn chứng. Ngoài ra mẫu sản phẩm này cũng không bắt buộc thử nghiệm lâm sàng và cơ quan quảnlý cũng chưa phát hành được pháp luật ngưỡng thực phẩm thường thì và thực phẩm bổsung. Trước những chưa ổn đang sống sót, tới đây cơ quan quản trị sẽ trấn áp chặt chẽhơn loại sản phẩm này, bảo vệ giữ không thay đổi, đồng thời tăng trưởng nhưng tăng trưởng trong quỹđạo. “ Chúng tôi đang đôn đốc ghi nhãn TPCN. Thông tư ghi nhãn sẽ ảnh hưởng tác động tới toàn bộdoanh nghiệp. Sẽ quản trị chặt hơn ”, ông Long nói. Theo Thứ trưởng Bộ Y tế, thực trạng “ lạm dụng, coi TPCN là thần dược ” là dothiếu những dẫn chứng khoa học, điều tra và nghiên cứu, nhìn nhận về nó. “ Hiện những vật chứng, vật chứng về mặt khoa học có tính thuyết phục của TPCNcòn rất ít, thậm chí còn hoàn toàn có thể nói chưa có khu công trình điều tra và nghiên cứu khoa học thực sự đánh giáđúng thực chất TPCN ”, Thứ Trưởng Bộ Y tế nói. Thứ trưởng Long cũng đề cập đến thực trạng quảng cáo vượt quá tác dụng củasản phẩm. Trên 50 % sai phạm về TPCN tương quan đến quảng cáo. Sai phạm hầu hết là ởquảng cáo trên những báo đài địa phươngDoanh nghiệp nói quá hiệu quả của mẫu sản phẩm, quảng cáo không đúng với nộidung được được cho phép, sử dụng những hình ảnh, thông điệp gây nhầm lẫn giữa thuốc vàthực phẩm chức năng. “ Có lần cố ngồi xem quảng cáo một loại loại sản phẩm, không phânbiệt được đó là thuốc hay thực phẩm chức năng ”, ông Nguyễn Thanh Long, san sẻ. Cục An toàn vệ sinh thực phẩm trọn vẹn biết và hiểu rằng chính thực trạng quảngcáo này khiến người tiêu dùng hiểu nhầm mẫu sản phẩm là thuốc điều trị chữa bệnh. Nhưngtheo pháp luật của phát luật, những vi phạm này không bị rút số đăng kí, nên Cục chỉ cóthể gửi công văn đến cơ quan báo chí truyền thông quảng cáo, nhu yếu doanh nghiệp tịch thu từ rơi, nộidung quảng cáo. 5.2.3. 2 ” Thần dược ” tương hỗ đắt hơn cả giá thuốc20Một chưa ổn nữa phải kể tới, đó là hiện chưa có lao lý bắt buộc công bố địnhlượng của loại sản phẩm. “ Ví như 1 số ít phảm phẩm như sâm Nước Hàn, đông trùng hạ thảohiện đang được bán rất nhiều ở Nước Ta nhưng tất cả chúng ta không có kiểm tra định lượngmà chỉ dựa vào hiệu quả định lượng của nước nguồn gốc. Còn mẫu sản phẩm trong nước thì yêucầu đơn vị sản xuất công bố và chịu nghĩa vụ và trách nhiệm. Nguyên nhân là vì TPCN không bắt buộckiểm nghiệm lâm sàng như thuốc ”, ông Trung nói. Ngoài ra, yếu tố công bố tác dụng, muốn chứng tỏ có hiệu suất cao thực sự nhưthuốc phải triển khai thử nghiệm lâm sàng. Đã có hiện tượng kỳ lạ doanh nghiệp làm kiểm địnhtại cơ sở A không đạt thì sang cơ sở B và có ghi nhận đạt. Cơ quan chức năng yêu cầumột TT kiểm nghiệm của nhà nước thực thi thì TT này cho biết không cóchức năng đó. Tới đây Bộ Y tế cũng sẽ đặt nặng yếu tố hậu kiểm. Theo đó, dù định lượng khôngđúng với công bố nhưng cũng phải có số lượng giới hạn ( vì thực phẩm không phải là thuốc ) có thểdao động trong hiên chạy dọc nào đó. Chúng tôi sẽ trao đổi với cơ quan quản trị, nhà khoahọc, hiệp hội để tới đây khi phát hành thông tư hướng dẫn nó đi vào đời sống, đi đúng vàquản lý đúng ”, Thứ trưởng khẳng định chắc chắn. Ngoài khó khăn vất vả trong việc quản trị quảng cáo TPCN, một yếu tố cũng khiến nhàquản lý và người dân đau đầu, đó là giá tiền những loại TPCN rất đắt, có những loại dùquảng cáo có công dụng “ tương hỗ điều trị ” chứ không phải thuốc điều trị nhưng giá cả caohơn cả giá thuốc. “ Về giá cả, nếu tất cả chúng ta coi là TPCN thuốc thì lập tức Bộ Y tế sẽ quản trị theogiá thuốc. Nhưng đây là thực phẩm và thực phẩm thì không do Bộ Y tế quản trị giá. Không thể yên cầu Bộ Y tế quản trị giá thực phẩm chức năng ”, Thứ trưởng Nguyễn ThanhLong bày tỏ. Và sau cuối, mặc dầu luật hiện hành được dựa trên tiêu chuẩn của Codex ( Ủy banTiêu chuẩn hoá thực phẩm Quốc tế ) nhưng chưa có một chế tài quản trị nào thực sự hữuhiệu. 21H iện những cơ quan quản trị mới đang đệ trình thiết kế xây dựng đề án tăng trưởng TPCN, đangtham khảo những văn bản pháp lý của những vương quốc khác ( tập trung chuyên sâu vào tác dụng của sảnphẩm, luật ghi nhãn … ) để từ đó sẽ có đề xuất kiến nghị sửa đổi như bắt buộc phải ghi nhãnTPCN trên loại sản phẩm sao cho “ khoa học, đúng mực, trung thực ” như phát biểu củaPGS. TS Lê Văn Truyền, Chuyên gia hạng sang dược học. Phát biểu tổng kết hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long, cho rằng bất cậptrong quản trị TPCN lúc bấy giờ có nhiều nguyên do, nhưng có một nguyên do cơ bản, đó là tăng trưởng thị trường TPCN của tất cả chúng ta quá nhanh. Trong quá trình những cơ quanquản lý chưa theo kịp, nhận thức của hội đồng, của chính đội ngũ y tế tất cả chúng ta chưatheo kịp yếu tố này. VI. Ví dụ về sai phạm trong kinh doanh thương mại đa cấp TPCN : 6.1 AmwayLà một tập đoàn lớn có trụ sở chính tại bang Michigan, Mỹ, sử dụng marketing trựctiếp MLM – mutil level marketing ( tại 1 số ít vương quốc, Amway sử dụng hình thức bánhàng trực tiếp hoặc bán hàng đa cấp ) để bán nhiều loại hàng khác nhau, hầu hết là hàngliên quan đến nghành nghề dịch vụ sức khỏe thể chất, thẩm mỹ và nghệ thuật và hàng tiêu dùng. Được xây dựng vào năm 1959 bởi hai người kinh doanh người Mỹ Jay VanAndel và Rich DeVos, đến nay Amway đang hoạt động giải trí tại hơn 109 vương quốc và vùnglãnh thổ với 21.000 nhân viên cấp dưới trên toàn thế giới. Công ty đã đạt mức tăng trưởng bán hàng9, 5 %, đạt 11,3 tỷ đô la Mỹ trong năm kết thúc ngày 31 tháng 12 năm 2012. Tại Nước Ta, Amway kiến thiết xây dựng chương trình bán hàng theo hướng đa cấp, có2 xí nghiệp sản xuất sản xuất tại khu Công nghiệp Amata, Biên Hòa, Đồng Nai và khu Côngnghiệp Nước Ta – Nước Singapore ( VSIP ) II, huyện Tân Uyên, tỉnh Tỉnh Bình Dương. Amway hiệnlà thành viên link của Thương Hội bán hàng đa cấp Nước Ta. 22H ình 6.1. Chân dung “ khổng lồ đa cấp ” Công ty AmwayHành vi vi phạm của công ty Amway : Tại Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Amway Nước Ta, tác dụng kiểm tra cho thấy công ty này đãkhông xuất trình được dẫn chứng chứng tỏ đã triển khai nghĩa vụ và trách nhiệm thông tin tới mộtsố Sở Công Thương so với những lần sửa đổi bổ trợ giấy ghi nhận ĐK hoạt độngbán hàng đa cấp lần thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6, thứ 7, tại những tỉnh như Cà Mau, Đồng Nai, Khánh Hòa, Tỉnh Bình Định, Tỉnh Bình Dương, Tỉnh Lào Cai, Long An, Hòa Bình, Hưng Yên … Hành vi này có tín hiệu vi phạm lao lý tại Điều 17 Nghị định 42 của nhà nước. Bên cạnh đó, Amway Nước Ta còn thực thi huấn luyện và đào tạo kiến thức và kỹ năng cơ bản cho nhàphân phối trải qua mạng lưới hệ thống đào tạo và giảng dạy trực tuyến tại website www. welcome2amway. comnhưng chưa có giải pháp ngặt nghèo để bảo vệ nhà phân phối theo dõi và chớp lấy toàn bộnội dung huấn luyện và đào tạo cơ bản. 6.2 Công ty Thiên Ngọc Minh UyĐược xây dựng ngày 30/6/2006, đại diện thay mặt pháp lý là bà Lâm Nữ giữ chức vụGiám đốc. Công ty có trụ sở tại TP.HN và hai Trụ sở ở TP TP HCM và Thành Phố Đà Nẵng. Theo23Bộ Công Thương, Thiên Ngọc Minh Uy đã ĐK kinh doanh thương mại 139 mẫu sản phẩm và bộ sảnphẩm trong đó có 37 thực phẩm chức năng, 77 mỹ phẩm, 8 mẫu sản phẩm may mặc, 17 sảnphẩm kim khí điện máy. Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh vừa ký kết luận kiểm tra so với hai công ty đacấp gồm Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Amway Nước Ta và Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Thiên Ngọc Minh Uy. Hình 6.2. Chính thức công bố hiệu quả thanh tra Thiên Ngọc Minh UyHành vi vi phạm của Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Thiên Ngọc Minh Uy : Cụ thể, tại Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Thiên Ngọc Minh Uy, Bộ Công Thương phát hiện hàngloạt vi phạm và có tín hiệu vi phạm như : Một số mẫu sản phẩm thực phẩm chức năng tại khocủa công ty có nhãn gốc chưa đúng với nhãn gốc đã ĐK với Cục An toàn thực phẩm ( Bộ Y tế ), có tín hiệu vi phạm lao lý về ghi nhãn mẫu sản phẩm và lưu thông hàng hóachưa đủ điều kiện kèm theo trên thị trường. Một số hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp của công ty ký với nhà phân phốikhông ghi khá đầy đủ thông tin của nhà phân phối theo lao lý. 24C ông ty Thiên Ngọc Minh Uy chưa triển khai việc giảng dạy cơ bản, cấp chứng chỉđào tạo cơ bản về bán hàng đa cấp và cấp thẻ thành viên mạng lưới bán hàng đa cấp theoquy định cho hàng loạt nhà phân phối đang hoạt động giải trí. Ngoài ra, đoàn kiểm tra phát hiệntrường hợp nhà phân phối không có tên trong list huấn luyện và đào tạo cơ bản về bán hàng đacấp của công ty nhưng vẫn được công ty cấp chứng từ huấn luyện và đào tạo cơ bản về bán hàng đacấp. Công ty không xuất trình được dẫn chứng chứng tỏ đã thực thi nghĩa vụthông báo tới một số ít Sở Công Thương so với những lần sửa đổi bổ trợ giấy chứng nhậnđăng ký hoạt động giải trí bán hàng đa cấp lần thứ 3, thứ 4 và thứ 5 ( Hậu Giang, Cần Thơ, PhúThọ, Thành Phố Bắc Ninh … ). Năm năm ngoái, công ty đã không giám sát kịp thời, để cho cơ sở Thiên Phúc – Ân Thitại Cốc Ngang, Phạm Ngũ Lão, Kim Động, Hưng Yên thực thi không đúng nghĩa vụhoàn lại tiền khi mua lại sản phẩm & hàng hóa từ nhà phân phối. Đối với những loại sản phẩm mỹ phẩm Kang Yi Dao, công ty cung ứng thêm dịch vụchăm sóc sức khỏe thể chất, đơn cử là cử nhân viên hướng dẫn cách sử dụng và sử dụng sản phẩmđể massage cho người mua theo những liệu trình tại công ty hoặc 1 số ít đại lý của công ty. Mặc dù công ty không thu phí hướng dẫn và massage mẫu sản phẩm mà khách đã mua, việccung cấp dịch vụ massage, chăm nom sức khỏe thể chất kèm theo dòng loại sản phẩm mỹ phẩm KangYi Dao có nhiều năng lực gây hiểu nhầm là công ty kinh doanh thương mại dịch vụ chăm nom sứckhỏe theo phương pháp đa cấp, không tương thích với đối tượng người dùng kinh doanh thương mại bán hàng đa cấp. Cũng theo Tóm lại của Bộ trưởng Công Thương, công ty này đã ký một hợp đồng, cấpmột mã số người mua cho nhà phân phối nhưng cho phép nhà phân phối có nhiều mã sốđơn hàng và hưởng quyền hạn theo chương trình trả thưởng so với những mã số đơn hàngđó. Năm năm ngoái, công ty đã thực thi nhiều chương trình khuyến mại dưới dạng tặngtiền mặt cho những nhà phân phối theo phương pháp đa cấp so với từng đơn hàng, theo đó, giá trị tiền mặt khuyến mại mà nhà phân phối hoàn toàn có thể được hưởng từ từng đơn hàng có thểvượt quá giá trị của đơn hàng đó. 25
Source: https://laodongdongnai.vn
Category: Thị Trường