Thị trường chứng khoán Việt Nam hạn chế và giải pháp – Tài liệu text

Thị trường chứng khoán Việt Nam hạn chế và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.97 KB, 20 trang )

Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp
Mở đầu
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là một trong những thị
trường tiềm năng, đang phát triển rất nóng, đang nhận được sự quan tâm
rất lớn từ công chúng đến Chính phủ vì nó có vai trò quan trọng trong
việc huy động vốn, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, tạo môi
trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Với vai
trò quan trọng đó thì một câu hỏi đặt ra là thị trường chứng khoán Việt
Nam đã làm tốt vai trò của mình chưa? Hay nó còn nhiều hạn chế và
chưa phát huy hết tính hiệu quả của nó. Để trả lời cho câu hỏi đó tôi
chọn đề tài: “ Thị trường chứng khoán Việt Nam hạn chế và giải pháp”.
Phần 1: Những vấn đề chung của thị trường chứng khoán
1. Sơ lược về thị trường chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta
mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm
lời.
Tuy nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung. Tính
tập trung ở đây được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất.
Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở Giao Dịch chứng
khoán (stock exchange). Tại SGDCK, các giao dịch được tập trung tại
một địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào
quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC ( over the counter).
Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các
công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau
1 1
bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương
thức thoả thuận.
2. Chức năng của thị trường chứng khoán
1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua

chứng khoán do các công ty phat hành, số tiền nhà rỗi của họ được đưa
vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng xản
xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa
phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và
đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho
công chúng một thị trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn
phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính
chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại
hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK mà các
nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt
hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là
một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư.
Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt
động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng
khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán,
hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh một một cách tổng hợp và
chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh
nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích
thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
2 2
5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô: Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách
nhạy bén và chính xác. Giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang
mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ
cho thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là
phong vũ biều của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính

phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính
phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp
thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có
thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định
hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
3. Cơ cấu thị trường chứng khoán
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường,, TTCK có 2
loại:
Thị trường chứng khoán sơ cấp
TTCK sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các
chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị
trường cấp một hay thị trường phát hành.
Chức năng của thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của
TTCK, đó là huy động vốn cho đầu tư.
Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết
kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to
lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệ, các
tổ chức tài chính, Chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ
cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không làm được.
3 3
Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh
nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp Nhà nước giải
quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông qua việc phát hành trái phiếu, có
thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức
sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc
mua sắm của mình tốt hơn.
Thị trường chứng khoán thứ cấp
Sau khi chứng khoán mới được phát hành trên thị trường sơ cấp,
chúng sẽ được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Khác với thị trường sơ

cấp, tiền bán chứng khoán trên thị trường thức cấp thuộc về các nhà đầu
tư và nhà kinh doanh chứ không thuộc về các công ty phát hành chứng
khoán.
Xét về phương thức tổ chức và giao dịch, TTCK bao gồm 3 loại:
SGDCK, OTC và thị trường thứ 3.
4. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
6. Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCk
phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh
tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh
tranh nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà
đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của
mình. Trên thị trường thứ cấp, cá nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để
tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và đánh giá theo phương
thức đấu giá.
7. Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mội người tham gia
thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng
trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử
phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
4 4
8. Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng
nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt.
Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông
tin đầy đủ thông tin theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, SGD, các CTCK và các tổ chức có liên
quan.
9. Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch
chứng khoán được thực hiện thông qua tôt chức trung gian là các công ty
chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nàh đầu tư không mua trực tiếp
của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. trên thị trường
thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty

chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp cá khách hàng, hoặc kết nối
các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán
chứng khoán trên tài khoản của mình.
10. Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên
sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ
quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
5. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán
11. Nhà phát hành: là các tôt chức thực hiện huy động vốn thông qua
TTCK dưới hình thức phát hành các chứng khoán.
12. Nhà đầu tư: là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên
TTCK.
13. Các công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong lĩnh
vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp
vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu
tư chứng khoán và tự doanh.
5 5
14. Các tổ chức có liên quan đến TTCK: Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước, sở giao dịch chứng khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán,
công ty đánh giá hệ số tín nhiệm…
6 6
Phần 2: Hạn chế của TTCK Việt Nam
2.1. Xuất phát điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam thấp
Hình thành từ việc cổ phần hoá các DNNN, các công ty có cổ phần
niêm yết trên TTCK Việt Nam chủ yếu do Nhà nước nắm cổ phần chi
phối và vì vậy, hoạt động của các công ty này ảnh hưởng đáng kể về tính
chất quản lý theo cách mà các DNNN vẫn làm. Bệ máy với các thành
viêc chủ chốt vẫn là những cá nhân do Nhà nước (cổ đông lớn nhất) bổ
nhiệm. Phần còn lại, do các cá nhân bên ngoài và người lao động trong
công ty nắm giữ. Nhiều cổ đông trong công ty thậm chí không có đủ
kiến thức về pháp luật để biết được mình có quyền lợi như thế nào khi

nắm giữ quyền biểu quyết. Hành lang pháp lý chưa đầy đủ và không rõ
ràng, thiếu một cơ chế giám sát đủ mạnh đã gần như không bảo vệ được
quyền lợi cho các cổ đông thiểu số.
Ban giám đốc của một số công ty này vẫn do Nhà nước bổ nhiệm
và gần như chẳng có trách nhiệm gì đáng kể về hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty. Chính đặc điểm này làm cho bộ máy quản lý trở nên
chuyên chế và có xu hướng chú trọng tới lợi ích các nhân của mình hơn
là lợi ích của các cổ đông và các chủ sở hữu. Điều mà chúng ta vẫn
thường thấy trong các doanh nghiệp nhà nước.
Trước hiện trạng đó câu hỏi đặt ra là các công ty kiểm toán độc
lập, người chịu trách nhiệm về sự trung thực của các báo cáo tài chính
do các công ty này công bố và cá nàh đầu tư, liệu đã làm hết trach nhiệm
của mình? Và các thông tin được SSC yêu cầu công bố là hoàn toàn
không đủ để có thể phân tích và đánh giá một cách sát thực hơn về tình
hình kinh doanh và tài chính của các công ty này. Một số công ty còn
cung cấp thông tin một cách thiếu trung thực và không đầy đủ.
Đánh giá về các công ty niêm yết:
7 7
Các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam hầu như đều là các
DNNN cổ phần hoá. Trong một vài năm trước và sau khi cổ phần hoá,
các công ty này tạo được mức lợi nhuận tương đối hấp dẫn vì được
hưởng những lợi thế nhất định từ khi chuyển đổi sở hữu. Phần lớn các
công ty đầu tiên được lựa chọn để tiến hành cổ phần hoá (theo kiểu thí
điểm) đều là các công ty đang hoạt động tương đối tốt của các Bộ, các
Tổng công ty hoặc của các địa phương. Ngoài ra, việc được hưởng ưu
đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu sau khi cổ phần
hoá tạo cho các doanh nghiệp này khả năng tạo được mức lợi thế tương
đối hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, lợi thế của một số
công ty có được là nhờ một số lợi thế độc quyền mà đơn vị chủ quản
trước đây mang lại. Những lợi thế này chỉ tạo được khả năng duy trì lợi

nhuận trong một khoảng thời gian ngắn và hầu như không xuất phát từ
tiềm năng và khả năng cạnh tranh thực lực của doanh nghiệp. Chính vì
vậy, doanh nghiệp không có khả năng đối phó với những biến động của
nền kinh tế. Tình hình hoạt động của họ vì vậy chịu tác động rất mạnh
của các yếu tố kinh tế vĩ mô. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn
được xem là hết sức phức tạp, tuy ít có khả năng xảy ra khủng hoảng
nghiêm trọng nhưng lại đầy rủi ro ( khả năng ít xảy ra khủng hoảng
nghiêm trọng vì nguyên nhân sự trì trệ về kinh tế chứ không phải xuất
phát từ một nền kinh tế đủ tiềm lực để đối phó với rủi ro).
Các công ty niêm yết hiện tại hầu hết là các công ty có lịch sử ra
đời khá lâu và hoạt động trong các ngành kinh tế rất phổ thông và mang
tính cạnh tranh cao như sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, vật
liệu xây dựng… thị trường Việt Nam và quốc tế đối với các sản phẩm
này hầu như đã bão hoà. Mặt khác, các sản phẩm này phần lớn nằm
trong danh mục các mặt hàng cắt giảm thuế khi hội nhập. Khả năng mở
8 8
chứng khoán do những công ty phat hành, số tiền nhà rỗi của họ được đưavào hoạt động giải trí sản xuất kinh doanh thương mại và qua đó góp thêm phần lan rộng ra xảnxuất xã hội. Thông qua TTCK, nhà nước và chính quyền sở tại ở những địaphương cũng kêu gọi được những nguồn vốn cho mục tiêu sử dụng vàđầu tư tăng trưởng hạ tầng kinh tế tài chính, Giao hàng những nhu yếu chung của xã hội. 2. Cung cấp thiên nhiên và môi trường góp vốn đầu tư cho công chúng : TTCK phân phối chocông chúng một thị trường góp vốn đầu tư lành mạnh với những thời cơ lựa chọnphong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tínhchất, thời hạn và độ rủi ro đáng tiếc, được cho phép những nhà đầu tư hoàn toàn có thể lựa chọn loạihàng hoá tương thích với năng lực, tiềm năng và sở trường thích nghi của mình. 3. Tạo tính thanh toán cho những chứng khoán : Nhờ có TTCK mà cácnhà góp vốn đầu tư hoàn toàn có thể quy đổi những chứng khoán họ chiếm hữu thành tiền mặthoặc những loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản làmột trong những đặc tính mê hoặc của chứng khoán so với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh động, bảo đảm an toàn của vốn góp vốn đầu tư. TTCK hoạtđộng càng năng động và có hiệu suất cao thì tính thanh toán của những chứngkhoán thanh toán giao dịch trên thị trường càng cao. 4. Đánh giá hoạt động giải trí của doanh nghiệp : Thông qua chứng khoán, hoạt động giải trí của doanh nghiệp được phản ánh một một cách tổng hợp vàchính xác, giúp cho việc nhìn nhận và so sánh hoạt động giải trí của doanhnghiệp được nhanh gọn và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môitrường cạnh tranh đối đầu lành mạnh nhằm mục đích nâng cao hiệu suất cao sử dụng vốn, kíchthích vận dụng công nghệ tiên tiến mới, nâng cấp cải tiến mẫu sản phẩm. 2 25. Tạo môi trường tự nhiên giúp nhà nước thực thi những chủ trương kinh tế tài chính vĩmô : Các chỉ báo của TTCK phản ánh hành động của nền kinh tế tài chính một cáchnhạy bén và đúng mực. Giá chứng khoán tăng lên cho thấy góp vốn đầu tư đangmở rộng, nền kinh tế tài chính tăng trưởng ; ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽcho thấy tín hiệu xấu đi của nền kinh tế tài chính. Vì thế, TTCK được gọi làphong vũ biều của nền kinh tế tài chính và là một công cụ quan trọng giúp Chínhphủ thực thi những chủ trương kinh tế tài chính vĩ mô. Thông qua TTCK, Chínhphủ hoàn toàn có thể mua và bán trái phiếu nhà nước để tạo ra nguồn thu bù đắpthâm hụt ngân sách và quản trị lạm phát kinh tế. Ngoài ra, nhà nước cũng cóthể sử dụng 1 số ít chủ trương, giải pháp tác động ảnh hưởng vào TTCK nhằm mục đích địnhhướng góp vốn đầu tư bảo vệ cho sự tăng trưởng cân đối của nền kinh tế tài chính. 3. Cơ cấu thị trường chứng khoánXét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, , TTCK có 2 loại : Thị trường chứng khoán sơ cấpTTCK sơ cấp là nơi diễn ra quy trình mua và bán lần đầu cácchứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thịtrường cấp một hay thị trường phát hành. Chức năng của thị trường sơ cấp : Thị trường sơ cấp thực thi tính năng quan trọng nhất củaTTCK, đó là kêu gọi vốn cho góp vốn đầu tư. Thị trường sơ cấp vừa có năng lực thu gom mọi nguồn vốn tiếtkiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, vừa có năng lực lôi cuốn nguồn vốn tolớn từ quốc tế ; những nguồn vốn trong thời điểm tạm thời nhàn nhã của doanh nghiệ, cáctổ chức kinh tế tài chính, nhà nước tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợcho nền kinh tế tài chính, mà những phương pháp khác không làm được. 3 3N hư vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường tự nhiên cho những doanhnghiệp gọi vốn để lan rộng ra sản xuất kinh doanh thương mại, giúp Nhà nước giảiquyết yếu tố thiếu vắng ngân sách trải qua việc phát hành trái phiếu, cóthêm vốn để thiết kế xây dựng hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải tổ mứcsống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời gian cho việcmua sắm của mình tốt hơn. Thị trường chứng khoán thứ cấpSau khi chứng khoán mới được phát hành trên thị trường sơ cấp, chúng sẽ được thanh toán giao dịch trên thị trường thứ cấp. Khác với thị trường sơcấp, tiền bán chứng khoán trên thị trường thức cấp thuộc về những nhà đầutư và nhà kinh doanh chứ không thuộc về những công ty phát hành chứngkhoán. Xét về phương pháp tổ chức triển khai và thanh toán giao dịch, TTCK gồm có 3 loại : SGDCK, OTC và thị trường thứ 3.4. Các nguyên tắc hoạt động giải trí của thị trường chứng khoán6. Nguyên tắc cạnh tranh đối đầu : Theo nguyên tắc này, Chi tiêu trên TTCkphản ánh quan hệ cung và cầu về chứng khoán và biểu lộ đối sánh tương quan cạnhtranh giữa những công ty. Trên thị trường sơ cấp, những nhà phát hành cạnhtranh nhau để bán chứng khoán của mình cho những nhà đầu tư, những nhàđầu tư được tự do lựa chọn những chứng khoán theo những tiềm năng củamình. Trên thị trường thứ cấp, cá nhà đầu tư cũng cạnh tranh đối đầu tự do đểtìm kiếm cho mình một doanh thu cao nhất, và nhìn nhận theo phươngthức đấu giá. 7. Nguyên tắc công minh : Công bằng có nghĩa là mội người tham giathị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳngtrong việc san sẻ thông tin và trong việc gánh chịu những hình thức xửphạt nếu vi phạm vào những qui định đó. 4 48. Nguyên tắc công khai minh bạch : Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượngnên TTCK phải được thiết kế xây dựng trên cơ sở mạng lưới hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, những tổ chức triển khai phát hành có nghĩa vụ và trách nhiệm phải phân phối thôngtin khá đầy đủ thông tin theo chính sách liên tục và đột xuất trải qua cácphương tiện thông tin đại chúng, SGD, những CTCK và những tổ chức triển khai có liênquan. 9. Nguyên tắc trung gian : Nguyên tắc này có nghĩa là những giao dịchchứng khoán được triển khai trải qua tôt chức trung gian là những công tychứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, những nàh góp vốn đầu tư không mua trực tiếpcủa nhà phát hành mà mua từ những nhà bảo lãnh phát hành. trên thị trườngthứ cấp, trải qua những nhiệm vụ môi giới, kinh doanh thương mại, những công tychứng khoán mua, bán chứng khoán giúp cá người mua, hoặc kết nốicác người mua với nhau qua việc triển khai những thanh toán giao dịch mua bánchứng khoán trên thông tin tài khoản của mình. 10. Nguyên tắc tập trung chuyên sâu : Các thanh toán giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trênsở thanh toán giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơquan quản trị nhà nước và những tổ chức triển khai tự quản. 5. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán11. Nhà phát hành : là những tôt chức triển khai kêu gọi vốn thông quaTTCK dưới hình thức phát hành những chứng khoán. 12. Nhà góp vốn đầu tư : là những người thực sự mua và bán chứng khoán trênTTCK. 13. Các công ty chứng khoán : là những công ty hoạt động giải trí trong lĩnhvực chứng khoán, hoàn toàn có thể đảm nhiệm một hoặc nhiều trong số những nghiệpvụ chính là môi giới, quản trị quỹ góp vốn đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầutư chứng khoán và tự doanh. 5 514. Các tổ chức triển khai có tương quan đến TTCK : Uỷ ban chứng khoán Nhànước, sở giao dịch chứng khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, công ty nhìn nhận thông số tin tưởng … 6 6P hần 2 : Hạn chế của TTCK Việt Nam2. 1. Xuất phát điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam thấpHình thành từ việc cổ phần hoá những DNNN, những công ty có cổ phầnniêm yết trên TTCK Việt Nam đa phần do Nhà nước nắm CP chiphối và vì thế, hoạt động giải trí của những công ty này ảnh hưởng tác động đáng kể về tínhchất quản trị theo cách mà những DNNN vẫn làm. Bệ máy với những thànhviêc chủ chốt vẫn là những cá thể do Nhà nước ( cổ đông lớn nhất ) bổnhiệm. Phần còn lại, do những cá thể bên ngoài và người lao động trongcông ty nắm giữ. Nhiều cổ đông trong công ty thậm chí còn không có đủkiến thức về pháp lý để biết được mình có quyền lợi và nghĩa vụ như thế nào khinắm giữ quyền biểu quyết. Hành lang pháp lý chưa không thiếu và không rõràng, thiếu một chính sách giám sát đủ mạnh đã gần như không bảo vệ đượcquyền lợi cho những cổ đông thiểu số. Ban giám đốc của một số ít công ty này vẫn do Nhà nước bổ nhiệmvà gần như chẳng có nghĩa vụ và trách nhiệm gì đáng kể về hoạt động giải trí sản xuất kinhdoanh của công ty. Chính đặc thù này làm cho cỗ máy quản trị trở nênchuyên chế và có khuynh hướng chú trọng tới quyền lợi những nhân của mình hơnlà quyền lợi của những cổ đông và những chủ chiếm hữu. Điều mà tất cả chúng ta vẫnthường thấy trong những doanh nghiệp nhà nước. Trước thực trạng đó câu hỏi đặt ra là những công ty truy thuế kiểm toán độclập, người chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về sự trung thực của những báo cáo giải trình tài chínhdo những công ty này công bố và cá nàh góp vốn đầu tư, liệu đã làm hết trach nhiệmcủa mình ? Và những thông tin được SSC nhu yếu công bố là hoàn toànkhông đủ để hoàn toàn có thể nghiên cứu và phân tích và nhìn nhận một cách sát thực hơn về tìnhhình kinh doanh thương mại và kinh tế tài chính của những công ty này. Một số công ty còncung cấp thông tin một cách thiếu trung thực và không rất đầy đủ. Đánh giá về những công ty niêm yết : 7 7C ác công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam hầu hết đều là cácDNNN cổ phần hoá. Trong một vài năm trước và sau khi cổ phần hoá, những công ty này tạo được mức doanh thu tương đối mê hoặc vì đượchưởng những lợi thế nhất định từ khi quy đổi chiếm hữu. Phần lớn cáccông ty tiên phong được lựa chọn để triển khai cổ phần hoá ( theo kiểu thíđiểm ) đều là những công ty đang hoạt động giải trí tương đối tốt của những Bộ, cácTổng công ty hoặc của những địa phương. Ngoài ra, việc được hưởng ưuđãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu sau khi cổ phầnhoá tạo cho những doanh nghiệp này năng lực tạo được mức lợi thế tươngđối mê hoặc. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, lợi thế của một sốcông ty có được là nhờ 1 số ít lợi thế độc quyền mà đơn vị chức năng chủ quảntrước đây mang lại. Những lợi thế này chỉ tạo được năng lực duy trì lợinhuận trong một khoảng chừng thời hạn ngắn và phần đông không xuất phát từtiềm năng và năng lực cạnh tranh đối đầu tiềm năng của doanh nghiệp. Chính vìvậy, doanh nghiệp không có năng lực đối phó với những dịch chuyển củanền kinh tế tài chính. Tình hình hoạt động giải trí của họ thế cho nên chịu ảnh hưởng tác động rất mạnhcủa những yếu tố kinh tế tài chính vĩ mô. Trong khi đó, nền kinh tế tài chính Việt Nam vốnđược xem là rất là phức tạp, tuy ít có năng lực xảy ra khủng hoảngnghiêm trọng nhưng lại đầy rủi ro đáng tiếc ( năng lực ít xảy ra khủng hoảngnghiêm trọng vì nguyên do sự ngưng trệ về kinh tế tài chính chứ không phải xuấtphát từ một nền kinh tế tài chính đủ tiềm lực để đối phó với rủi ro đáng tiếc ). Các công ty niêm yết hiện tại hầu hết là những công ty có lịch sử dân tộc rađời khá lâu và hoạt động giải trí trong những ngành kinh tế tài chính rất đại trà phổ thông và mangtính cạnh tranh đối đầu cao như sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, vậtliệu kiến thiết xây dựng … thị trường Việt Nam và quốc tế so với những sản phẩmnày phần nhiều đã bão hoà. Mặt khác, những mẫu sản phẩm này hầu hết nằmtrong hạng mục những mẫu sản phẩm cắt giảm thuế khi hội nhập. Khả năng mở8 8