Định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông – Tài liệu text

Định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.19 KB, 27 trang )

Định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông (Khảo sát một số
trường trên địa bàn Hà Nội)
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghề nghiệp luôn được coi là 1 trong nhiều yếu tố quan trọng quyết định
tương lai của mỗi con người. Vì thế, lựa chọn cho mình 1 ngành nghề phù hợp là
vấn đề được nhiều bạn trẻ quan tâm, đặc biệt là học sinh trung học phổ thông
(THPT). Trong xã hội hiện nay, học sinh THPT có rất nhiều lựa chon sau khi tốt
nghiệp: học tiếp ĐH, CĐ, học nghề, du học, đi làm… Vậy họ sẽ lựa chọn như thế
nào?
Trong quá trình lựa chọn ngành, nghề, đã xuất hiện nhiều yếu tố tác động
(bản thân, gia đình, bạn bè…) cùng với các mâu thuẫn nảy sinh (có người chọn
đúng ngành nghề phù hợp với bản thân nhưng lại có người không tìm đúng ngành
nghề nên không thể phát huy hết năng lực bản thân, hay có người chọn ngành nghề
không theo mong muốn bản thân mà lựa chọn theo ý kiến người khác, gây ra tính
bị động trong việc lựa chọn…); tất cả những vấn đề đã nêu trên khiến chúng tôi
quyết định tiến hành đề tài : “ Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT”. Từ
đó, tìm ra xu thế chung của giới trẻ hiện nay (cụ thể là học sinh THPT) trong định
hướng việc làm nghề nghiệp của họ.
2. Ý nghĩa của đề tài
*Ý nghĩa lý luận:
Đề tài “Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT” mong muốn tìm ra
những yếu tố chi phối, tác động tới lựa chọn của học sinh THPT. Từ đó, khái quát
và tìm hiểu xu thế chung của giới trẻ trong việc lựa chọn ngành nghề của họ. Bên
cạnh đó, đề tài còn mong muốn tìm hiểu nhận thức của học sinh về nghề nghiệp mà
mình lựa chọn và muốn có được trong tương lai, nguyên nhân dẫn tới sự nhận thức
1
đó. Từ đó, có thể đưa ra cho học sinh THPT những biện pháp có khả năng hữu ích,
giúp họ định hướng cho bản thân trong việc lựa chọn những việc làm nghề nghiệp
thích hợp.
Trong đề tài này, chúng tôi có sử dụng 1 số lý thuyết xã hội học như lý

thuyết cơ cấu – chức năng (T. Parsons), lý thuyết tương tác biểu trưng ( G. Mead).
Qua điều tra thực tế, chúng tôi muốn kiểm nghiệm, bổ sung và hoàn chỉnh thêm các
kiến thức xẫ hội học đã có. Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn tìm ra được
những nét quy luật mới, góp phần làm phong phú thêm cho hệ thống lý luận xã hội
học.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Qua đề tài, chúng tôi muốn làm rõ thực trạng chọn ngành nghề trong tương
lai của học sinh THPT trên địa bàn Hà Nội. Thông qua đó chỉ ra những điều bất
cập, những vấn đề còn tồn tại, còn chưa phù hợp trong xu hướng lựa chọn của họ.
Ngoài ra, đề tài còn làm rõ nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh. Từ đó, đưa ra những giải pháp mang tính thực tiễn giúp cho
các nhà quản lý có thêm những cơ sở khoa học, để hoạch định chính sách cho phù
hợp hơn với thực tế, đặc biệt là những chính sách GD – ĐT.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
– Nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT;
– Giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về dự định nghề nghiệp trong
tương lai của mình;
– Tìm ra xu hướng chính, ở học sinh THPT nói riêng và ở giới trẻ nói chung,
trong lựa chọn việc làm nghề nghiệp của họ.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
– Lựa chọn và vận dụng một số lý thuyết xã hội học (thuyết tương tác biểu
trưng, thuyết cơ cấu – chức năng) để làm rõ định hướng nghề nghiệp của học sinh
THPT.
2
– Tiến hành khảo sát (phỏng vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng hỏi) một số
nhóm học sinh THPT để có dữ liệu thực tế phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
– Phân tích dữ liệu, tìm ra những yếu tố tác động đến lựa chọn của học sinh
THPT. Từ đó, đưa ra những kết quả có tính thuyết phục, đáp ứng mục tiêu của đề
tài.

4. Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứư:
Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT.
* Phạm vi nghiên cứu:
– Không gian nghiên cứu:
Tiến hành nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội cụ thể là 3 trường THPT : Việt
Đức, Trần Phú và Amsterdam.
– Thời gian nghiên cứư:
Cuối tháng 2 đến cuối tháng 3.
* Khách thể nghiên cứu:
Học sinh của 3 trường THPT : Việt Đức, Trần Phú và Amsterdam
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp phân tích tài liệu:
Chúng tôi đã tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau: các bài
báo, các đề tài nghiên cứu, khoá luận tốt nghiệp được đánh giá cao và những tài
liệu khác có liên quan đến vấn đề này nhằm đưa ra những thông tin cần thiết phục
vụ nghiên cứu.
* Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi:
Bảng hỏi được xây dựng 1 cách logic, có nguyên tắc dựa theo nội dung của
đề tài nhằm thu nhận các thông tin đáp ứng yêu cầu đề tài.
* Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được thực hiện ở 1 số cá nhân nhằm thu thập thêm thông
tin và kiểm tra tính xác thực của bảng hỏi.
3
6. Giả thuyết nghiên cứu
– Định hướng của học sinh THPT là thiếu cơ sở chắc chắn do thiéu thông tin
về các trường, ngành nghề mà mình lựa chọn.
– Việc phần đông học sinh THPT nộp đơn thi vào CĐ-ĐH phải chăng là có
sự sai lệch trong quan niệm, cách thức nhìn nhận xã hội? Việc thi vào CĐ-ĐH liệu
có phải là con đường duy nhất của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp?

4
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
I. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Lao động, việc làm và nghề nghiệp là một vấn đề được rất nhiều nhà khoa
học quan tâm ngiên cứu. Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề này, các tác giả thường
hay đặt mục tiêu tìm hiểu về định hướng nghề nghiệp, về những dự định việc làm
nghề nghiệp, và nói chung, về hiện trạng lao động – việc làm – nghề nghiệp xã hội
của giới trẻ.
Trên bình diện định hướng việc làm nghề nghiệp ở thanh niên, nhiều tác giả
đặc biệt quan tâm tới đối tượng là những học sinh sắp kết thúc trường THPT. Các
tác giả thường nhấn mạnh giá trị việc làm, bên cạnh nhiều giá trị khác của xã hội
mà thanh niên cần hướng tới, hay những yếu tố khác như nơi làm việc, cơ quan,
khu vực làm việc…
Tuy nhiên, đề tài của chúng tôi khi thực hiện trên địa bàn Hà Nội muốn tìm
ra những điểm mới trong nhận thức, xu thế của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp
trước sự thay đổi của nền kinh tế đất nước cùng với những yếu tố khác như : khoa
học kĩ thuật, thông tin đại chúng đã tác động tới nhận thức, tư duy của học sinh như
thế nào? Từ đó, đưa ra sự thay đổi lớn nhất là trong tư duy, nhận thức cuả học sinh
THPT đối với xã hội và suy nghĩ của họ về công việc của mình trong tương lai .
II. Các khái niệm và lý thuyết liên quan
1. Các khái niệm
– Nghề nghiệp:
Nghề nghiệp hay hoạt động nghề nghiệp được hiểu là hoạt động phục vụ cho
cơ sở tồn tại và hướng vào việc kiếm sống, việc này phải làm miệt mài, lâu dài và
để hoàn thành cần có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm (trình độ chuyên môn)
theo tổ hợp đặc biệt.
5
– Xã hội học nghề nghiệp:
Không thể không có một ngành xã hội học nghề nghiệp độc lập. Nó đề cập

tới rất nhiều cách đặt vấn đề mà theo đó phân tích các lĩnh vực khác nhau: nghề
nghiệp đào tạo nghề, hoạt động nghề nghiệp, vị thế nghề nghiệp và không có sự
kiêng kỵ “ lĩnh vực đối tượng”
– Phân giới:
Tâm lý học nghề nghiệp: vấn đề thích hợp và sở thích với việc đào tạo và
hoạt động trong ngành nghề hoặc lĩnh vực nghề nghiệp nhất định (tư vấn nghề
gnhiệp, tư vấn lao động), nghiên cứucác điều kiện chỗ làm việc và đặc trưng hoạt
động nghề nghiệp, giáo dục học nghề nghiệp: vấn đề truyền thụ năng lực, kỹ năng
và kiến thức đặc trưng nghề nghiệp, mở rộng nghề nghiệp trong giáo dục chủ ý và
chức năng trong khi đang học nghề.
– Tương lai – phát triển – các vấn đề của ngành:
Đã có thảo luận rằng nghề nghiệp đã mất chức năng của nó là tạo cho con
người ý nghĩa cuộc sống của mình. Nhiều người vẫn tiếp tục hỏi về sự phát triển
của các nghề dù là họ đang ở “ngưỡng thứ nhất” khi chuyển tiếp từ phổ thông. họ
muốn quyết định học một nghề có triển vọng tương lai hoặc họ đã học nghề xong
và đang ở “ngưỡng thứ hai” và họ đã không tìm được việc làm trong nghề đã học.
Những người này và tất cả những người liên quan đến tư vấn cha mẹ, giáo viên dạy
nghề, nhà tư vấn nghề nghiệp, nhà tư vấn lao động và người giới thiệu việc làm vẫn
hỏi về tương lai của nghề nghiệp.
2. Các lý thuyết
2.1. Thuyết cơ cấu chức năng của Parsons
Theo Parsons, xã hội là một chỉnh thể, hệ thống bao gồm nhiều tiểu hệ thống
có quan hệ chặt chẽvới nhau. Trong hệ thống xã hội, hệ thống hành vi được coi là
nền tảng, cơ sở, nhờ nó mà con ngừơi có khả năng thích ứng với môi trường xung
quanh.
6
Vận dụng lý thuyết này, chúng tôi muốn tìm hiểu hành vi lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh THPT cùng với những tác động của nhiều yếu tố khác : gia
đình, bạn bè, giới tính… đến sự lựa chọn này.
2.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng

Người đại diện là G. Mead. Các tác giả đi theo thuyết này cho rằng xã hội
bao gồm nhiều nhóm nhỏ với những vai trò cá nhân.
Vận dụng lý thuyết này, chúng tôi xem xét hành vi lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh THPT như biểu hiện của hành động xã hội có ý thức. Từ đó, dẫn tới nhận
thức về vấn đề nghề nghiệp – việc làm của học sinh THPT.
7
CHƯƠNG II :
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
Hà Nội được coi là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị của cả nước. Vì thế,
tại đay là địa bàn tập trung một số lương lớn các trương THPT. Cả thành phố hiện
nay có 134 trường vơi 182.477 học sinh. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở 3
trường: Việt Đức, Trần Phú ở quận Hoàn Kiếm và Amsterdam ở quận Đống Đa.
Trường Trần Phú là một trường THPT có bề dày lịch sử đáng kể ở Hà Nội.
Đây chính là trường THPT Hoàn Kiếm hay, xa hơn nữa, là trường Anbe Saro. Hiện
tại, trường có khoảng 2000 học sinh, mỗi khối 10,11,12 có khoảng 15 lớp, trong đó
có 2 lớp chuyên ban A và 2 lớp chuyên ban D. Trong quá trình hoạt động, trưòng
đã đạt nhiều thành tích cao về học tập cũng như các hoạt động phong phú khác.
Cùng nằm trong một quận với trường Trần Phú là THPT Việt Đức. Đây cũng
được coi là trường điểm của quận trong mọi hoạt động, phong trào. Mỗi khối của
trường có khoảng 20 lớp. Thầy và trò trường Việt Đức luôn dành nhiều thứ hạng
cao trong học tập và các hoạt động ngoại khoá khác của quận nói riêng và thành
phố nói chung.
Trường THPT Amsterdam là một trong nhiều trường chuyên có uy tín của
thành phố.Trường có nhiều lớp chuyên như : Anh, Toán, Văn, Tin, Lý, Hoá, Sinh…
Trong những năm qua, trường có nhiếu thành tích xuất sắc trong các kỳ thi học
sinh giỏi quốc gia và quốc tế.
Có thể, mẫu lựa chọn của chúng tôi là chưa thực sự đầy đủ về tính đại diện,
nhưng chúng tôi đã tiến hành ở các lớp khác nhau: lớp chuyên, lớp chọn và cả lớp
thường.

II. Thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT
Phân tích dữ liệu điều tra bằng bảng hỏi tại 3 trường THPT : Việt Đức, Trần
Phú và Amsterdam, chúng tôi thu được những kết quả như sau:
8
1. Lựa chọn của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp
Qua điều tra thấy rằng, tỷ lệ học sinh dự định sẽ thi ĐH, CĐ sau khi tốt
nghiệp THPT chiếm tỷ lệ khá cao (78,32%). Thực tế cho thấy rằng ở Hà Nội hiện
nay, những gia đình khá giả ,có điều kiện thường đầu tư cho con em đi học tiếp ở
nước ngoài sau khi tốt nghiệp THPT. Và có thể nói đây là một trong những con
đường tốt nhất để con em họ có được những ngành nghề vững vàng, ổn định trong
tương lai. Do đó số học sinh dự định đi du học chiếm tỷ lệ không nhỏ (9,09%).
Trong khi đó, 1 số ít học sinh khác thay cho dự định sẽ chọn ngành nghề cho mình
thông qua các trường ĐH, CĐ thì lại quyết tâm đi làm ngay sau khi tốt nghiệp. Số
này chiếm 2,79%.
Bảng 1. Lựa chọn của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp (nguồn: tự điều tra)
Học ĐH Đi du học Đi làm Học nghề Chưa rõ Phương án khác
78,32% 9,09% 2,79% 0,72% 4,19% 4,89%
Qua đây, chúng ta có thể thấy rằng trong định hướng nghề nghiệp của học
sinh THPT, việc thi vào ĐH, CĐ không phải là con đuờng duy nhất để họ có được
1 ngành nghề tốt như mong đợi. Thế hệ trẻ ngày nay đã linh hoạt hơn trong việc
chọn ngành, chọn nghề. Họ biết lựa chọn cho mình 1 hướng đi phù hợp với hoàn
cảnh, khả năng của bản thân, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó cũng có 1 số ít học
sinh dự định học nghề sau khi tốt nghiệp (0,92%); hay có 4,19% các em vẫn chưa
xác định rõ ràng nghề nghiệp trong tương lai của mình. Tuy nhiên không phải tất cả
học sinh THPT đều chọn những dự định trên, họ còn có những phương án khác
như: thi ĐH nếu trượt thì đi du học, lấy vợ,lấy chồng, buôn bán nhỏ…
2. Xu hướng kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm nay
Theo số liệu của chúng tôi sau khi điều tra được thì có 88,82% học sinh
THPT sẽ theo học các lớp ôn, luyện thi. Thực ra, đây cũng là 1 thực tế rất phổ biến
trong giới học sinh hiện nay, đặc biệt là học sinh lớp 12. Bởi tâm lý chung của các

sĩ tử cuối cấp cho rằng đi ôn thi ĐH thì an tâm hơn, các thầy cô luyện thi lâu năm
9
sẽ cung cấp nhiều hơn, đầy đủ hơn kiến thức và cách làm bài. Do đó theo họ thì họ
có thể yên tâm hơn khi vào phòng thi vì đã được học ôn nhiều dạng, nhiều bài. Bên
cạnh đó, số học sinh không đi ôn tại các lớp luyện thi là 11,18% cao hơn mọi năm.
Số học sinh này lựa chọn như vậy là có nhiều lý do khác nhau:
Bảng 2. Những lý do khiến học sinh THPT không đi ôn tại các lớp luyện thi
Không thi 31,25%
Gia đình không có điều kiện 12,5%
Tự ôn 25%
Không có thời gian 12,5%
Học nhiều quá 25%
Phương án khác 12,5%
Chiếm số lượng cao nhất là những học sinh không thi ĐH, CĐ (31,25%) nên
họ không đi ôn thi. Có thể sau khi tốt nghiệp THPT, số học sinh này sẽ đi làm, học
nghề hay có những lựa chọn khác cho bản thân. Một số khác không ôn luyện thi vì
gia đình không có điều kiện cho học theo học các lớp đó. Số học sinh này chiếm tỷ
lệ 12,5% trong tổng số học sinh không đi ôn thi. Theo điều tra của chúng tôi thì có
1 số lưọng học sinh không đi ôn là do không có đủ thời gian (12,5%). Tuy nhiên,
bên cạnh đó có 25% học sinh tự ôn ở nhà. Với những thay đổi như hiện nay của Bộ
GD- ĐT, như việc thay đổi cách ra đề thi khi đề chỉ tập trung vào chương trình cơ
bản của sách giáo khoa thì việc 1 số lượng không nhỏ các em ở nhà tự ôn là 1 điều
đáng mừng. Điều đó chứng tỏ các em đã sắp xếp được thời gian học hợp lý và hoàn
toàn tin tưởng vào khả năng, năng lực của mình. Ngoài ra còn có số học sinh chọn
phương án khác. Trong đó có 12,5 % dự định đi du học và 6,25% không đến lớp
ôn luyện vì cho rằng như thế thì học nhiều quá.
Cũng theo điều tra của chúng tôi về sụ lựa chọn khối thi thì:
Đứng đầu về tỷ lệ lựa chọn là khối D (37,76%). Đây cũng là điều dễ hiểu vì
ở Hà Nội hiện nay, ngoại ngữ đang dần trở thành 1 môn học quan trọng trong nhà
trường phổ thông cũng như trong cuộc sống sau này của mỗi con người. Thêm nữa,

học 3 môn Toán – Văn – Anh sẽ là toàn diện hơn cả. Điều này sẽ tạo nhiều điều
10
thuyết cơ cấu tổ chức – tính năng ( T. Parsons ), kim chỉ nan tương tác biểu trưng ( G. Mead ). Qua tìm hiểu trong thực tiễn, chúng tôi muốn kiểm nghiệm, bổ trợ và hoàn hảo thêm cáckiến thức xẫ hội học đã có. Đồng thời, chúng tôi cũng mong ước tìm ra đượcnhững nét quy luật mới, góp thêm phần làm nhiều mẫu mã thêm cho mạng lưới hệ thống lý luận xã hộihọc. * Ý nghĩa thực tiễn : Qua đề tài, chúng tôi muốn làm rõ tình hình chọn ngành nghề trong tươnglai của học sinh THPT trên địa phận Thành Phố Hà Nội. Thông qua đó chỉ ra những điều bấtcập, những yếu tố còn sống sót, còn chưa tương thích trong xu thế lựa chọn của họ. Ngoài ra, đề tài còn làm rõ nguyên do, những yếu tố ảnh hưởng tác động tới sự lựa chọn nghềnghiệp của học sinh. Từ đó, đưa ra những giải pháp mang tính thực tiễn giúp chocác nhà quản trị có thêm những cơ sở khoa học, để hoạch định chủ trương cho phùhợp hơn với thực tiễn, đặc biệt quan trọng là những chủ trương GD – ĐT. 3. Mục đích, trách nhiệm nghiên cứu và điều tra * Mục đích nghiên cứu và điều tra : – Nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT ; – Giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về dự tính nghề nghiệp trongtương lai của mình ; – Tìm ra khuynh hướng chính, ở học sinh THPT nói riêng và ở giới trẻ nói chung, trong lựa chọn việc làm nghề nghiệp của họ. * Nhiệm vụ nghiên cứu và điều tra : – Lựa chọn và vận dụng một số ít triết lý xã hội học ( thuyết tương tác biểutrưng, thuyết cơ cấu tổ chức – tính năng ) để làm rõ định hướng nghề nghiệp của học sinhTHPT. – Tiến hành khảo sát ( phỏng vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng hỏi ) một sốnhóm học sinh THPT để có tài liệu thực tiễn ship hàng cho đề tài điều tra và nghiên cứu. – Phân tích tài liệu, tìm ra những yếu tố tác động ảnh hưởng đến lựa chọn của học sinhTHPT. Từ đó, đưa ra những hiệu quả có tính thuyết phục, cung ứng tiềm năng của đềtài. 4. Đối tượng, khoanh vùng phạm vi, khách thể nghiên cứu và điều tra * Đối tượng nghiên cứư : Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT. * Phạm vi nghiên cứu và điều tra : – Không gian nghiên cứu và điều tra : Tiến hành nghiên cứu và điều tra trên địa phận Thành Phố Hà Nội đơn cử là 3 trường THPT : ViệtĐức, Trần Phú và Amsterdam. – Thời gian nghiên cứư : Cuối tháng 2 đến cuối tháng 3. * Khách thể điều tra và nghiên cứu : Học sinh của 3 trường THPT : Việt Đức, Trần Phú và Amsterdam5. Phương pháp nghiên cứu và điều tra * Phương pháp nghiên cứu và phân tích tài liệu : Chúng tôi đã triển khai tích lũy tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau : những bàibáo, những đề tài điều tra và nghiên cứu, khoá luận tốt nghiệp được nhìn nhận cao và những tàiliệu khác có tương quan đến yếu tố này nhằm mục đích đưa ra những thông tin thiết yếu phụcvụ nghiên cứu và điều tra. * Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi : Bảng hỏi được kiến thiết xây dựng 1 cách logic, có nguyên tắc dựa theo nội dung củađề tài nhằm mục đích thu nhận những thông tin cung ứng nhu yếu đề tài. * Phương pháp phỏng vấn sâu : Phương pháp này được triển khai ở một số ít cá thể nhằm mục đích tích lũy thêm thôngtin và kiểm tra tính xác nhận của bảng hỏi. 6. Giả thuyết nghiên cứu và điều tra – Định hướng của học sinh THPT là thiếu cơ sở chắc như đinh do thiéu thông tinvề những trường, ngành nghề mà mình lựa chọn. – Việc phần đông học sinh THPT nộp đơn thi vào CĐ-ĐH phải chăng là cósự xô lệch trong ý niệm, phương pháp nhìn nhận xã hội ? Việc thi vào CĐ-ĐH liệucó phải là con đường duy nhất của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp ? CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀII. Tổng quan về yếu tố nghiên cứuLao động, việc làm và nghề nghiệp là một yếu tố được rất nhiều nhà khoahọc chăm sóc ngiên cứu. Mặt khác, khi nghiên cứu và điều tra yếu tố này, những tác giả thườnghay đặt tiềm năng tìm hiểu và khám phá về định hướng nghề nghiệp, về những dự tính việc làmnghề nghiệp, và nói chung, về thực trạng lao động – việc làm – nghề nghiệp xã hộicủa giới trẻ. Trên bình diện định hướng việc làm nghề nghiệp ở người trẻ tuổi, nhiều tác giảđặc biệt chăm sóc tới đối tượng người dùng là những học sinh sắp kết thúc trường THPT. Cáctác giả thường nhấn mạnh vấn đề giá trị việc làm, bên cạnh nhiều giá trị khác của xã hộimà người trẻ tuổi cần hướng tới, hay những yếu tố khác như nơi thao tác, cơ quan, khu vực thao tác … Tuy nhiên, đề tài của chúng tôi khi triển khai trên địa phận Thành Phố Hà Nội muốn tìmra những điểm mới trong nhận thức, xu thế của học sinh THPT sau khi tốt nghiệptrước sự đổi khác của nền kinh tế tài chính quốc gia cùng với những yếu tố khác như : khoahọc kĩ thuật, thông tin đại chúng đã ảnh hưởng tác động tới nhận thức, tư duy của học sinh nhưthế nào ? Từ đó, đưa ra sự đổi khác lớn nhất là trong tư duy, nhận thức cuả học sinhTHPT so với xã hội và tâm lý của họ về việc làm của mình trong tương lai. II. Các khái niệm và kim chỉ nan liên quan1. Các khái niệm – Nghề nghiệp : Nghề nghiệp hay hoạt động giải trí nghề nghiệp được hiểu là hoạt động giải trí Giao hàng chocơ sở sống sót và hướng vào việc kiếm sống, việc này phải làm miệt mài, vĩnh viễn vàđể hoàn thành xong cần có kiến thức và kỹ năng, kiến thức và kỹ năng và kinh nghiệm tay nghề ( trình độ trình độ ) theo tổng hợp đặc biệt quan trọng. – Xã hội học nghề nghiệp : Không thể không có một ngành xã hội học nghề nghiệp độc lập. Nó đề cậptới rất nhiều cách đặt yếu tố mà theo đó nghiên cứu và phân tích những nghành nghề dịch vụ khác nhau : nghềnghiệp đào tạo và giảng dạy nghề, hoạt động giải trí nghề nghiệp, vị thế nghề nghiệp và không có sựkiêng kỵ “ nghành nghề dịch vụ đối tượng người dùng ” – Phân giới : Tâm lý học nghề nghiệp : yếu tố thích hợp và sở trường thích nghi với việc huấn luyện và đào tạo vàhoạt động trong ngành nghề hoặc nghành nghề dịch vụ nghề nghiệp nhất định ( tư vấn nghềgnhiệp, tư vấn lao động ), nghiên cứucác điều kiện kèm theo chỗ thao tác và đặc trưng hoạtđộng nghề nghiệp, giáo dục học nghề nghiệp : yếu tố truyền thụ năng lượng, kỹ năngvà kiến thức và kỹ năng đặc trưng nghề nghiệp, lan rộng ra nghề nghiệp trong giáo dục chủ ý vàchức năng trong khi đang học nghề. – Tương lai – tăng trưởng – những yếu tố của ngành : Đã có luận bàn rằng nghề nghiệp đã mất tính năng của nó là tạo cho conngười ý nghĩa đời sống của mình. Nhiều người vẫn liên tục hỏi về sự phát triểncủa những nghề dù là họ đang ở “ ngưỡng thứ nhất ” khi chuyển tiếp từ phổ thông. họmuốn quyết định hành động học một nghề có triển vọng tương lai hoặc họ đã học nghề xongvà đang ở “ ngưỡng thứ hai ” và họ đã không tìm được việc làm trong nghề đã học. Những người này và tổng thể những người tương quan đến tư vấn cha mẹ, giáo viên dạynghề, nhà tư vấn nghề nghiệp, nhà tư vấn lao động và người trình làng việc làm vẫnhỏi về tương lai của nghề nghiệp. 2. Các lý thuyết2. 1. Thuyết cơ cấu tổ chức công dụng của ParsonsTheo Parsons, xã hội là một chỉnh thể, mạng lưới hệ thống gồm có nhiều tiểu hệ thốngcó quan hệ chặt chẽvới nhau. Trong mạng lưới hệ thống xã hội, mạng lưới hệ thống hành vi được coi lànền tảng, cơ sở, nhờ nó mà con ngừơi có năng lực thích ứng với môi trường tự nhiên xungquanh. Vận dụng triết lý này, chúng tôi muốn khám phá hành vi lựa chọn nghềnghiệp của học sinh THPT cùng với những ảnh hưởng tác động của nhiều yếu tố khác : giađình, bè bạn, giới tính … đến sự lựa chọn này. 2.2. Lý thuyết tương tác biểu trưngNgười đại diện thay mặt là G. Mead. Các tác giả đi theo thuyết này cho rằng xã hộibao gồm nhiều nhóm nhỏ với những vai trò cá thể. Vận dụng triết lý này, chúng tôi xem xét hành vi lựa chọn nghề nghiệp củahọc sinh THPT như bộc lộ của hành vi xã hội có ý thức. Từ đó, dẫn tới nhậnthức về yếu tố nghề nghiệp – việc làm của học sinh THPT.CHƯƠNG II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUI. Tổng quan địa phận nghiên cứuHà Nội được coi là TT kinh tế tài chính, văn hoá, chính trị của cả nước. Vì thế, tại đay là địa phận tập trung chuyên sâu một số ít lương lớn những trương THPT. Cả thành phố hiệnnay có 134 trường vơi 182.477 học sinh. Chúng tôi thực thi nghiên cứu và điều tra ở 3 trường : Việt Đức, Trần Phú ở Q. Hoàn Kiếm và Amsterdam ở Q. Đống Đa. Trường Trần Phú là một trường THPT có bề dày lịch sử dân tộc đáng kể ở TP.HN. Đây chính là trường THPT Hoàn Kiếm hay, xa hơn nữa, là trường Anbe Saro. Hiệntại, trường có khoảng chừng 2000 học sinh, mỗi khối 10,11,12 có khoảng chừng 15 lớp, trong đócó 2 lớp chuyên ban A và 2 lớp chuyên ban D. Trong quy trình hoạt động giải trí, trưòngđã đạt nhiều thành tích cao về học tập cũng như những hoạt động giải trí đa dạng chủng loại khác. Cùng nằm trong một Q. với trường Trần Phú là THPT Việt Đức. Đây cũngđược coi là trường điểm của Q. trong mọi hoạt động giải trí, trào lưu. Mỗi khối củatrường có khoảng chừng 20 lớp. Thầy và trò trường Việt Đức luôn dành nhiều thứ hạngcao trong học tập và những hoạt động giải trí ngoại khoá khác của Q. nói riêng và thànhphố nói chung. Trường THPT Amsterdam là một trong nhiều trường chuyên có uy tín củathành phố. Trường có nhiều lớp chuyên như : Anh, Toán, Văn, Tin, Lý, Hoá, Sinh … Trong những năm qua, trường có nhiếu thành tích xuất sắc trong những kỳ thi họcsinh giỏi vương quốc và quốc tế. Có thể, mẫu lựa chọn của chúng tôi là chưa thực sự rất đầy đủ về tính đại diện thay mặt, nhưng chúng tôi đã thực thi ở những lớp khác nhau : lớp chuyên, lớp chọn và cả lớpthường. II. Thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPTPhân tích dữ liệu tìm hiểu bằng bảng hỏi tại 3 trường THPT : Việt Đức, TrầnPhú và Amsterdam, chúng tôi thu được những hiệu quả như sau : 1. Lựa chọn của học sinh THPT sau khi tốt nghiệpQua tìm hiểu thấy rằng, tỷ suất học sinh dự tính sẽ thi ĐH, CĐ sau khi tốtnghiệp THPT chiếm tỷ suất khá cao ( 78,32 % ). Thực tế cho thấy rằng ở TP.HN hiệnnay, những mái ấm gia đình khá giả, có điều kiện kèm theo thường góp vốn đầu tư cho con trẻ đi học tiếp ởnước ngoài sau khi tốt nghiệp THPT. Và hoàn toàn có thể nói đây là một trong những conđường tốt nhất để con trẻ họ có được những ngành nghề vững vàng, không thay đổi trongtương lai. Do đó số học sinh dự tính đi du học chiếm tỷ suất không nhỏ ( 9,09 % ). Trong khi đó, 1 số ít học sinh khác thay cho dự tính sẽ chọn ngành nghề cho mìnhthông qua những trường ĐH, CĐ thì lại quyết tâm đi làm ngay sau khi tốt nghiệp. Sốnày chiếm 2,79 %. Bảng 1. Lựa chọn của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp ( nguồn : tự tìm hiểu ) Học ĐH Đi du học Đi làm Học nghề Chưa rõ Phương án khác78, 32 % 9,09 % 2,79 % 0,72 % 4,19 % 4,89 % Qua đây, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy rằng trong định hướng nghề nghiệp của họcsinh THPT, việc thi vào ĐH, CĐ không phải là con đuờng duy nhất để họ có được1 ngành nghề tốt như mong đợi. Thế hệ trẻ ngày này đã linh động hơn trong việcchọn ngành, chọn nghề. Họ biết lựa chọn cho mình 1 hướng đi tương thích với hoàncảnh, năng lực của bản thân, mái ấm gia đình và xã hội. Bên cạnh đó cũng có 1 số ít họcsinh dự tính học nghề sau khi tốt nghiệp ( 0,92 % ) ; hay có 4,19 % những em vẫn chưaxác định rõ ràng nghề nghiệp trong tương lai của mình. Tuy nhiên không phải tất cảhọc sinh THPT đều chọn những dự tính trên, họ còn có những giải pháp khácnhư : thi ĐH nếu trượt thì đi du học, lấy vợ, lấy chồng, kinh doanh nhỏ … 2. Xu hướng kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm nayTheo số liệu của chúng tôi sau khi tìm hiểu được thì có 88,82 % học sinhTHPT sẽ theo học những lớp ôn, luyện thi. Thực ra, đây cũng là 1 thực tiễn rất phổ biếntrong giới học sinh lúc bấy giờ, đặc biệt quan trọng là học sinh lớp 12. Bởi tâm ý chung của cácsĩ tử cuối cấp cho rằng đi ôn thi ĐH thì yên tâm hơn, những thầy cô luyện thi lâu nămsẽ cung ứng nhiều hơn, khá đầy đủ hơn kiến thức và kỹ năng và cách làm bài. Do đó theo họ thì họcó thể yên tâm hơn khi vào phòng thi vì đã được học ôn nhiều dạng, nhiều bài. Bêncạnh đó, số học sinh không đi ôn tại những lớp luyện thi là 11,18 % cao hơn mọi năm. Số học sinh này lựa chọn như vậy là có nhiều nguyên do khác nhau : Bảng 2. Những nguyên do khiến học sinh THPT không đi ôn tại những lớp luyện thiKhông thi 31,25 % Gia đình không có điều kiện kèm theo 12,5 % Tự ôn 25 % Không có thời hạn 12,5 % Học nhiều quá 25 % Phương án khác 12,5 % Chiếm số lượng cao nhất là những học sinh không thi ĐH, CĐ ( 31,25 % ) nênhọ không đi ôn thi. Có thể sau khi tốt nghiệp THPT, số học sinh này sẽ đi làm, họcnghề hay có những lựa chọn khác cho bản thân. Một số khác không ôn luyện thi vìgia đình không có điều kiện kèm theo cho học theo học những lớp đó. Số học sinh này chiếm tỷlệ 12,5 % trong tổng số học sinh không đi ôn thi. Theo tìm hiểu của chúng tôi thì có1 số lưọng học sinh không đi ôn là do không có đủ thời hạn ( 12,5 % ). Tuy nhiên, cạnh bên đó có 25 % học sinh tự ôn ở nhà. Với những biến hóa như lúc bấy giờ của BộGD – ĐT, như việc biến hóa cách ra đề thi khi đề chỉ tập trung chuyên sâu vào chương trình cơbản của sách giáo khoa thì việc 1 số lượng không nhỏ những em ở nhà tự ôn là 1 điềuđáng mừng. Điều đó chứng tỏ những em đã sắp xếp được thời hạn học hài hòa và hợp lý và hoàntoàn tin cậy vào năng lực, năng lượng của mình. Ngoài ra còn có số học sinh chọnphương án khác. Trong đó có 12,5 % dự tính đi du học và 6,25 % không đến lớpôn luyện vì cho rằng như thế thì học nhiều quá. Cũng theo tìm hiểu của chúng tôi về sụ lựa chọn khối thi thì : Đứng đầu về tỷ suất lựa chọn là khối D ( 37,76 % ). Đây cũng là điều dễ hiểu vìở TP. Hà Nội lúc bấy giờ, ngoại ngữ đang dần trở thành 1 môn học quan trọng trong nhàtrường đại trà phổ thông cũng như trong đời sống sau này của mỗi con người. Thêm nữa, học 3 môn Toán – Văn – Anh sẽ là tổng lực hơn cả. Điều này sẽ tạo nhiều điều10