Khái niệm ngành dịch vụ ăn uống – Tài liệu text
38
1.2.1.Nhà hàng dịch vụ đầy đủ
Nhóm ngành này bao gồm các chủ thể chuyên môn cung cấp dịch vụ ăn uống
cho khách hàng đặt món, được phục vụ tại chỗ trong nhà hàng và trả tiền sau khi
dùng bữa. Một số cửa hàng trong nhóm ngành này có thể cung cấp dịch vụ ăn uống
cho khách kèm với các dịch vụ khác như mua đồ ăn mang về hoặc các chương trình
tiết mục biểu diễn trong nhà hàng.
1.2.2.Điểm dịch vụ ăn uống một phần
Nhóm ngành này bao gồm những tổ chức, cá nhân chuyên môn cung cấp dịch
vụ ăn uống, nơi mà khách hàng thường gọi hoặc chọn đồ ăn và trả trước khi ăn. Hầu
hết các nơi này không có người phục vụ, tuy nhiên một số vẫn cung cấp những dịch
vụ một phần như là làm đồ ăn theo yêu cầu, chuyển đồ đến chỗ ngồi của khách
hàng hoặc dịch vụ chuyển đến tận nhà.
Nhóm này có thể được chia nhỏ thành các loại hình: Quán ăn nhanh; Quán café;
Quầy tự phục vụ bữa ăn nhẹ và thức uống không cồn.
1.2.3.Dịch vụ ăn uống đặc biệt
Nhóm ngành này bao gồm những chủ thể cung cấp dịch vụ ăn uống tại một
trong các địa điểm sau: nơi ở của khách hàng; nơi khách yêu cầu; các điểm bán
hàng lưu động. Nhóm này chia thành các loại hình dịch vụ cụ thể sau:
– Nhà cung cấp dịch vụ ăn uống theo hợp đồng: Nhà cung cấp thực hiện dịch vụ
cho các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp sản xuất, công ty thương mại…..trên cơ sở
thỏa thuận bằng hợp đồng trong một thời hạn nhất định.
– Nhà cung cấp dịch vụ ăn uống theo sự kiện: Nhà cung cấp thực hiện dịch vụ
theo sự kiện đơn lẻ như: tiệc cưới, liên hoan cơ quan, hội họp….Các nhà cung
cấp thường có các dụng cụ và phương tiện vận chuyển đồ ăn đến các địa điểm
diễn ra sự kiện và chuẩn bị các món ăn tại đó.
– Các điểm bán hàng lưu động: Người bán hàng chuẩn bị và phục vụ bữa và đồ
ăn nhẹ cho khách hàng ngay tại quầy lưu động như: quầy bán xúc xích, thịt
nướng, quầy kem, bánh kẹp, bắp rang,…
1.3.Đặc điểm ngành dịch vụ ăn uống
39
1.3.1.Đặc điểm chung của ngành dịch vụ
Ngành dịch vụ ăn uống là một bộ phận của khu vực dịch vụ với những đặc điểm
chung sau:
– Tính vô hình: Có thể nói rằng dịch vụ chủ yếu là vô hình, phi vật chất. “Dịch
vụ là cái mà chúng ta có thể mua bán được nhưng không thể rơi xuống chân ta
được.” (Bùi Thị Lý, Đỗ Hương Lan, Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Quang Hiệp, Phan
Minh Hòa, Vũ Thành Toàn, 2009, tr.75). Nếu như hàng hoá hữu hình có dạng
vật chất, thì dịch vụ là một hoạt động mà chúng ta không thể cầm nắm, nếm,
ngửi…, nghĩa là không thể nhận biết được bằng các giác quan thông thường,
không thể nhìn thấy được trước khi có quyết định mua sắm. Chất lượng dịch vụ
tốt hay xấu chỉ khi đã qua sử dụng mới có thể đánh giá được.
Dịch vụ ăn uống được tạo nên từ nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có các yếu
tố vô hình mà khách hàng không thể nhìn thấy được hoặc cảm nhận trước khi
tiêu dùng dịch vụ được như: mùi, vị của món ăn, thái độ phục vụ của nhân viên,
chỉ khi nào tiêu dùng dịch vụ họ mới có thể cảm nhận được các yếu tố đó.
– Tính không tách rời: Dịch vụ là hoạt động của con người, có tính cá thể cao,
gắn chặt với một cá nhân nào đó xác định đồng thời dịch vụ thường là kết quả
của sự tác động qua lại trực tiếp giữa người cung cấp và người tiêu dùng. Do đó
nói tới tính không tách rời của dịch vụ chính là nói tới tính gắn kết giữa quá
trình sản xuất và tiêu thụ dịch vụ. Hai quá trình này cùng diễn ra đồng thời về
cả thời gian và địa điểm. Khi việc cung cấp dịch vụ kết thúc cũng là lúc dịch vụ
được tiêu dùng xong.
Trong kinh doanh dịch vụ ăn uống, khách hàng trên thực tế sẽ quyết định
việc sản xuất dịch vụ ăn uống. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ăn uống
không thể tạo ra dịch vụ nếu không có đầu vào là khách hàng. Khách hàng vừa
là người tiêu dùng, vừa là người tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất dịch
vụ. Quá trình sản xuất dịch vụ ăn uống không được thực hiện trước khi có sự
xuất hiện của khách hàng.
– Tính không cất trữ được: Đối với dịch vụ về cơ bản quá trình sản xuất và tiêu
dùng gắn liền với nhau. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta không thể mang
dịch vụ đi cất trữ trước khi tiêu dùng hoặc khi không tiêu dùng đến giống như
hàng hoá. Đặc điểm này đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ thị trường, sự phù hợp giữa
cung và cầu dịch vụ.
40
Trong kinh doanh dịch vụ ăn uống, tính không cất trữ có thể dẫn đến tính dễ
hư hỏng của sản phẩm, dịch vụ. Do đó, các nhà quản lý cần phải đưa ra các biện
pháp làm phẳng cầu bằng việc sử dụng công cụ giá cả và các công cụ khác
nhằm thu hút khách hàng trong từng thời điểm nhất định.
– Tính không đồng nhất: Sự xuất hiện của yếu tố con người ở đây khó lòng có
thể định một mức chuẩn để đánh giá giống như cách chúng ta so sánh những
hàng hóa hữu hình được sản xuất hàng loạt. Tính không đồng nhất xuất phát từ
2 phía: người cung ứng dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ.
(1) Về phía người cung ứng: Cùng một người cung cấp trong cùng một ngày
có thể cung cấp dịch vụ với chất lượng khác nhau. Điều này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trình độ, mức độ tiếp nhận và lượng thông tin mà người cung
cấp thu nhận được.
(2) Về phía người tiêu dùng: Yêu cầu của mỗi người tiêu dùng dịch vụ khác
nhau. Cùng một món ăn nhưng người này thì cho là ngon, người kia thì cho là
không ngon. Để thoả mãn được cả đối tượng khách hàng này lẫn khách hàng
kia thì người cung ứng phải tự điều chỉnh dịch vụ. Như vậy càng những dịch vụ
mang tính cá nhân cao (tức những dịch vụ đáp ứng như cầu cá nhân của con
người) thì mức độ thay đổi chất lượng hay tính không đồng nhất càng lớn.
Trong dịch vụ ăn uống, khách hàng rất muốn được chăm sóc như là những
con người riêng biệt nên dịch vụ ăn uống thường cá nhân hóa và không đồng
nhất. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ăn uống rất khó đưa ra các tiêu
chuẩn dịch vụ nhằm làm thỏa mãn tất cả khách hầng trong mọi hoàn cảnh vì sự
thỏa mãn đó phụ thuộc vào sự cảm nhận và trông đợi của từng khách hàng.
1.3.2.Đặc điểm riêng của ngành dịch vụ ăn uống
Ngoài những đặc điểm chung của ngành dịch vụ, dịch vụ ăn uống mang 4 đặc
điểm riêng sau:
– Ngành dịch vụ ăn uống đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất của con người: Nhu cầu
ăn uống là nhu cầu cơ bản nhất của con người, nằm trong bậc thứ nhất trong
tháp nhu cầu con người của Maslow. Đó là nhu cầu không thể nào mất đi, trái
lại nó luôn phát triển với những yêu cầu ngày càng cao. Cùng với tốc độ tăng
trưởng của dân số, quy mô của ngành dịch vụ ăn uống cũng lớn lên không
ngừng về số lượng. chất lượng, loại hình, cũng như chiến lược kinh doanh.
41
– Ngành dịch vụ ăn uống kết hợp cung cấp sản phẩm và cung cấp dịch vụ: Khác
với nhiều ngành dịch vụ khác như tài chính, ngân hàng, giải trí,….mục đích của
ngành dịch vụ ăn uống đem lại cho khách hàng những sản phẩm thực phẩm, đồ
uống cũng những tiện ích đi kèm như tiết kiệm thời gian, công sức, có không
gian thư giãn và thưởng thức…..Như vậy, ngoài mục đích cơ bản là cung cấp
bữa ăn cho người tiêu dùng, ngành dịch vụ ăn uống hướng tới việc sử dụng mọi
công cụ, phương tiện để đem lại cho khách hàng một sự kết hợp hoàn hảo giữa
sản phẩm và dịch vụ, tối đa hóa mức độ hài lòng của họ.
– Sản phẩm và dịch vụ mà ngành dịch vụ ăn uống cung cấp có những tác động rõ
ràng nhất đến tất cả các giác quan của con người: Khi tham gia trải nghiệm
dịch vụ ăn uống, khách hàng không chỉ được thỏa mãn về vị giác, khứu giác
thông qua sản phẩm là các món ăn, đồ uống mà các giác quan thính giác, thị
giác, xúc giác cũng được thỏa mãn tối đa thông qua các dịch vụ như: không
gian nền, âm thanh, ánh sáng,…
– Ngành dịch vụ ăn uống là loại hình dịch vụ chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố văn
hóa: Ăn uống gắn liền với văn hóa ẩm thực của mỗi quốc gia. Theo đó, dịch vụ
ăn uống cũng phải hoạt động và phát triển sao cho phù hợp với từng nền văn
hóa. Hơn bất kỳ ngành nào khác, yếu tố văn hóa có tác động rất lớn đến hoạt
động kinh doanh dịch vụ ăn uống, từ cách thiết kế, trang trí của hàng đến cách
thức nấu nướng, sử dụng gia vị,….
2. Đặc trưng sử dụng Marketing giác quan trong kinh doanh dịch vụ ăn uống
2.1.Môi trường vật chất (physical environment) trong ngành kinh doanh dịch vụ
ăn uống.
Đối với ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống, các món ăn và đồ uống đóng vai trò
rất quan trọng, nhưng để thu hút được cả 5 giác quan của khách hàng, để giữ chân
họ thì yếu tố không gian, môi trường vật chất xung quanh của địa điểm cung cấp
dịch vụ ăn uống mới là yếu tố quyết định, đây cũng là yếu tố đặc trưng trong ngành
kinh doanh dịch vụ nói chung, và ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống nói riêng. Vì
vậy, trong phần này, tác giả sẽ tập trung phân tích về ảnh hưởng của môi trường vật
chất đối với khách hàng trong phạm vi ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống.
42
2.1.1.Môi trường vật chất
Kotler, 1973 và Milliman, 1986, tr.13, đã chỉ ra rằng sản phẩm hữu hình thực
chất chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ trải nghiệm tiêu dùng của khách hàng. Địa
điểm nơi mà sản phẩm hay dịch vụ được cung cấp mới là một trong những yếu tố có
ảnh hưởng nhất. Địa điểm, hay cụ thể hơn là bầu không khí (atmosphere) của địa
điểm, có thể tác động lớn đến quá trình đưa ra quyết định của khách hàng hơn là
chính bản thân sản phẩm (món ăn, đồ uống).
Theo khái niệm về “bầu không khí” của Kotler đã nêu trong phần 1.1, chương I,
bầu không khí được xem như là nét đặc trưng của một khối không gian nào đó. Ví
dụ, mỗi nhà hàng có một bầu không khí khác nhau, chúng được tạo nên bởi những
vật thể xung quanh nhà hàng – những thứ khơi gợi lên cảm giác thoải mái cho
khách hàng. Con người cảm nhận bầu không khí thông qua các giác quan. Những
kênh giác quan chính trong một bầu không khí bao gồm: hình ảnh (màu sắc, độ
sáng, kích cỡ, hình khối); âm thanh (âm lượng, cường độ), hương thơm và cảm
nhận (sự mềm mại, sự mượt mà, nhiệt độ) (Kotler, 1973).
Kotler (1973) đã chỉ ra những ảnh hưởng của bầu không khí (cũng chính là môi
trường vật chất) tới hành vi của khách hàng. Hình 2.1 chỉ ra cơ chế hoạt động của
những ảnh hưởng mà môi trường vật chất tác động lên hành vi tiêu dùng, dựa trên
chuỗi nhân quả.
Các tín hiệu
tác động lên
giác quan của
môi trường vật
chất xung
quanh đối
tượng tiêu
dùng
erer
Nhận thức của
khách hàng về
các tín hiệu tác
động lên giác
quan của môi
trường vật chất
Sự nhận thức
của khách hàng
làm thay đổi
thông tin, trạng
thái cảm xúc
của khách hàng
Sự ảnh hưởng
của những thay
đổi về thông
tin, trạng thái
cảm xúc của
khách hàng đến
khả năng mua
hàng
Hình 2.1: Ảnh hưởng của môi trường vật chất lên khả năng mua hàng
(Nguồn: Kotler, 1973)
Có thể minh họa sơ đồ trên bằng một ví dụ sau: Khách hàng đến các nhà hàng
không phải chỉ để ăn uống cho no, họ đến đó vì muốn được cảm thấy sự mới lạ, sự
sang trọng, sự thoải mái, sự kính trọng,…. Đi ăn tại các nhà hàng không còn chỉ là
Source: https://laodongdongnai.vn
Category: Người Dịch Vụ