Đến thời Minh Mạng triều Nguyễn quan hệ với các nước phương Tây như thế nào

QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản vừa đủ của tài liệu tại đây ( 1.01 MB, 38 trang )Nội dung chính

  • QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY
  • Mục lục
  • Thân thếSửa đổi
  • Thái tửSửa đổi
  • Chính sách ngoại giao với phương Tây thời Minh Mạng
  • Đến thời Minh Mạng, nhà Nguyễn quan hệ với các nước phương Tây như thế nào?
  • Bài tập trắc nghiệm 15 phút Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX) – Lịch sử 10 – Đề số 3
  • Đến thời Minh Mạng, triều Nguyễn quan hệ với các nước phương Tây như thế nào?
  • Xem thêm các đề thi trắc nghiệm khác
  • Video liên quan

Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn
với các nước phương Tây trước khi
thực dân Pháp xâm lược Đại Nam
Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn
với các nước phương Tây trước khi
thực dân Pháp xâm lược Đại Nam
NỘI DUNG:

I. Vấn đề ngoại giao giữa các nước phương
Tây thời vua Gia Long (1802 – 1820)

II. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây dưới thời vua Minh Mạng (1820 –
1840)

III. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các
nước phương Tây thời kỳ Thiệu Trị ( 1841 –
1847 ) và Tự Đức ( 1847 – 1858 )

IV. Quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn với
một số nước châu Á
I. Vấn đề ngoại giao giữa các nước
phương Tây thời vua Gia Long (1802 –
1820)
1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và đường lối ngoại
giao của Gia Long đối với các nước phương Tây
– Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm
chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong và Đàng Ngoài
cũ, Nguyễn Ánh lên ngôi vua niên hiệu là Gia
Long, lập ra nhà Nguyễn. Vua Gia Long lên
ngôi trong bối cảnh mà thế giới và trong nước có

nhiều biến động phải đối mặt với nhiều vấn đề
cấp bách mà lịch sử đặt ra.
Bên cạnh đó,
lúc bấy giờ,
vấn đề tôn
giáo cũng là
một bài toán
cho triều
Nguyễn bởi
sự xâm nhập
của đạo
Thiên Chúa
2. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây dưới thời vua Gia Long
(1802 – 1820)
2.1 Quan hệ nhà Nguyễn với nước Pháp

Trong thời kỳ này, nước Pháp đang bước vào
cuộc cách mạng công nghiệp, kinh tế tư bản
Pháp lúc bấy giờ đã xếp hàng thứ nhì thế giới
sau nước Anh do đó nhu cầu về nguyên liệu,
nhân công, thị trường rất lớn.

Nhìn chung, dưới triều vua Gia Long, quan hệ
thương mại Việt – Pháp còn chưa bị gây khó
khăn. Việc buôn bán giữa hai nước diễn ra khá
thuận lợi. Vua Gia Long tạo điều kiện cho
thương nhân, ưu tiên cho họ nhưng không cho
họ đặc quyền nào. Mọi đề nghị ký kết các hiệp
ước thương mại từ Pháp đều bị vua Gia Long

từ chối.
2.2. Quan hệ nhà Nguyễn với nước Anh:
Khi vua Gia Long lên ngôi (1802), người Anh
bắt đầu đặt mối quan hệ thông thương với Việt
Nam. Năm 1803, J.W. Roberts đến Việt Nam
để đặt quan hệ thông thương với triều đình
Huế nhưng đã bị vua Gia Long từ chối.

Về sau, do nhu cầu mua vũ khí, người Anh vẫn
đem hàng hoá đến bán nhưng vua Gia Long
vẫn giữ thái độ kỳ thị. Nhìn chung, dưới thời
vua Gia Long, nhà vua có thái độ thiện chí với
các thương đoàn người Pháp nhưng lại có
thành kiến với người Anh. Nhà vua cho họ là
bọn Man Di, lòng dạ khó lường, phải ngăn
ngừa từ xa do vậy việc buôn bán với người
Anh bị hạn chế.
2.3 Quan hệ nhà Nguyễn với Hoa Kỳ

Năm 1802, một công ty tàu biển lớn của Hoa
Kỳ đã phái một chiếc tàu tên là Fame đến Việt
Nam tìm kiếm nguồn hàng mới là đường và cà
phê. Ngày 21/5/1803 tàu cập cảng Đà Nẵng và
đã được vua Gia Long cấp phép buôn bán.

Nhìn chung, tất cả các tàu Mĩ đến Việt
Nam thời kỳ này đều nhắm vào mục
đích tìm kiếm thị trường và thiết lập
quan hệ giao thương với Việt Nam. Có
thể nói, thời vua Gia Long, quan hệ Việt

Nam – Hoa Kỳ chưa phát triển.
Nhìn chung, tất cả các tàu Mĩ đến Việt Nam thời
kỳ này đều nhắm vào mục đích “m kiếm thị
trường và thiết lập quan hệ giao thương với Việt
Nam. Có thể nói, thời vua Gia Long, quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ chưa phát triển.
Chân Lạp thời xưa
3. Vấn đề đạo Thiên Chúa trong quan
hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây thời Gia Long
(1802 – 1820)

Đây là một vấn đề gây ra sự trở ngại trong quan
hệ giữa nhà nước phong kiến Việt Nam với các
nước phương Tây, đặc biệt là với nước Pháp.

Nhìn chung, trong suốt thời kỳ của mình, Gia
Long chủ trương ôn hoà. Ông không thể chống
đạo một cách công khai, cũng không thể “cải
đạo”.

Vua Gia Long thể hiện một đối sách ngoại giao
nhu hoà, uyển chuyển qua vấn đề tôn giáo.
II. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với
các nước phương Tây thời Minh Mạng
(1820 – 1840).
1. Tình hình quốc tế, khu vực và đường lối ngoại
giao của Minh Mạng với các nước phương Tây

Thời bấy giờ, tình hình trong nước và quốc tế

tiếp tục có những chuyển biến phức tạp khiến
Minh Mạng có những thay đổi trong chính
sách ngoại giao của mình. Ngoài ra, vấn đề tôn
giáo cũng là nhân tố tác động đến chính sách
ngoại giao của vua Minh Mạng.

Trong khoảng thời gian từ 1825 cho đến 1831,
sự hiện diện của các nước tư bản phương Tây
ở châu Á ngày càng gia tăng là một lời cảnh
báo cho vua Minh Mạng về sự an nguy của đất
nước. Ông tiếp tục củng cố triều đại và đất
nước trên nền tảng của ý thức hệ Nho giáo để
chống đỡ các tư tưởng mới lạ của phương Tây,
chủ yếu là đạo Thiên Chúa.
Chân dung vua
Minh Mạng

Trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư
bản phương Tây, sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, cũng như tình hình các quốc gia phong
kiến lần lượt rơi vào tay giặc, vua Minh Mạng
đã có những nhận thức mới như phòng vệ
những nơi hiểm yếu trên bờ biển.
2. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây dưới thời vua Minh Mạng
(1820 – 1840):
a. Về quan hệ nước ta với Pháp:
– Trong những năm đầu lên ngôi, đường lối
chính trị của Minh Mạng so với Gia Long
không có thay đổi lớn.

– Đi theo đường lối đối ngoại của vua Gia Long
đã hoạch định, Minh Mạng khi lên ngôi vẫn
đối xử nhã nhặn, hoà hoãn với Pháp.
b. Quan hệ nhà Nguyễn với Hoa Kỳ

Vào cuối năm 1832, phái đoàn Hoa Kỳ đầu tiên
đã đến Việt Nam xin đặt quan hệ thông
thương. Vua Minh Mạng từ chối nhưng vẫn
cho phép phái đoàn Mĩ được buôn bán ở đây
nhưng phải tuân theo luật pháp của quốc gia
áp dụng cho người nước ngoài

c. Quan hệ nhà Nguyễn với nước Anh:

Đối với người Anh, vua Minh Mạng thể hiện
đường lối ngoại giao hoàn toàn bị động trước
tình thế và tránh xa người Anh giống như
người Pháp.
3. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn dưới
thời Minh Mạng (1820 – 1840):

Chính sách “bài đạo” dưới triều vua Minh
Mạng là một nhân tố tạo nên sự cản trở và khó
khăn lớn trong quan hệ Việt Nam với các nước
phương Tây, chủ yếu là Pháp trong thời kỳ
này.

Triều đình nhà Nguyễn bấy giờ thiếu sáng suốt
khi chưa phân biệt lòng yêu nước và đức tin
của tôn giáo để có những chủ trương, đường

lối phù hợp.
4. Đánh giá đường lối đối ngoại thời vua Minh
Mạng:

Trong 20 năm trị vì vua Minh Mạng đã thực
hiện một đường lối ngoại giao rõ ràng có định
hướng, có điều chỉnh cho phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử mới. Dưới thời vua Minh Mạng,
Việt Nam trở thành một quốc gia có uy tín và
thể hiện được sự tự cường trong khu vực.

Minh Mạng có lúc được coi là “Minh quân”
của Việt Nam bởi những công lao đối với lịch
sử dân tộc Việt Nam nói chung và văn hoá Việt
Nam nói riêng. Nhưng ông cũng bị coi là một
“bạo chúa” của triều Nguyễn bởi những chính
sách cấm đạo ngặt nghèo.
III. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước
phương Tây thời kỳ Thiệu Trị ( 1841 – 1847 ) và Tự
Đức ( 1847 – 1858 ):
1. Bối cảnh thế giới, khu vực và đường lối ngoại
giao của Thiệu Trị, Tự Đức với các nước phương
Tây :

Ở khu vực, thì triều đình Huế gặp sự chống đối
mạnh mẽ từ phía Chân Lạp khi các quan lại Việt
Nam áp dụng chế độ cai trị hà khắc lên đất nước
này, do vậy uy tín của Việt Nam đối với Chân
Lạp sụp đổ, Thiệu Trị phải cho rút quân về.

Chủ nghĩa tư bản phương Tây tăng cường bành
trướng của chúng đối với các quốc gia châu Á và
đã đạt được mục đích của mình.
Chân dung vua Thiệu Trị và Tự Đức (từ trái qua)

Tình hình trong nước rối ren, bên ngoài thì
thực dân Pháp đang lâm le xâm lược. Tất cả đã
làm cho triều đinh Huế và cá nhân Tự Đức
đứng trước những thử thách vô cùng nghiệt
ngã, chính sách đối ngoại của ông, chủ yếu với
các nước phương Tây đến đây cũng bị chi phối
nghiêm trọng và là vấn đề nổi cộm trong chính
sách ngoại triều Nguyễn dưới thời Tự Đức.

Mục lục

  • 1 Thân thế
  • 2 Thái tử
  • 3 Trị vì quốc gia
    • 3.1 Thời gian đầu sau khi vua Gia Long mất ( 1820 )
    • 3.2 Quốc hiệu Đại Nam
    • 3.3 Quan chế và tổ chức triển khai chính quyền sở tại TW
    • 3.4 Quân đội
    • 3.5 Đinh điền và thuế khóa
    • 3.6 Văn hóa
    • 3.7 Giáo dục đào tạo
    • 3.8 Nông nghiệp
    • 3.9 Kỹ thuật công nghệ tiên tiến
    • 3.10 Xét xử công thần quá cố
    • 3.11 Trấn áp nổi dậy
      • 3.11.1 Tại Bắc Kỳ ( Bắc Hà )
        • 3.11.1. 1 Phan Bá Vành
        • 3.11.1. 2 Lê Duy Lương
        • 3.11.1. 3 Nông Văn Vân
      • 3.11.2 Tại Trung Kỳ
        • 3.11.2. 1 Chăm Pa
      • 3.11.3 Tại Nam Kỳ
  • 4 Đối ngoại
    • 4.1 Với Trung Quốc
    • 4.2 Với Xiêm La
    • 4.3 Với Ai Lao ( Lào )
    • 4.4 Với Chân Lạp
    • 4.5 Với phương Tây
      • 4.5.1 Việc cấm đạo Công giáo
  • 5 Mở rộng chủ quyền lãnh thổ Đế quốc Đại Nam
    • 5.1 Trấn Tây Thành
      • 5.1.1 Quản lý hành chính
      • 5.1.2 Quan hệ với người bản xứ
      • 5.1.3 Triệt thoái khỏi Trấn Tây
    • 5.2 Trấn Ninh
  • 6 Qua đời
  • 7 Gia quyến
    • 7.1 Hậu cung
    • 7.2 Vợ ( được ghi nhận )
    • 7.3 Đế hệ thi và Phiên hệ thi
  • 8 Nhận định
    • 8.1 Đối nội
    • 8.2 Đối ngoại
  • 9 Xem thêm
  • 10 Chú thích và tìm hiểu thêm
    • 10.1 Ghi chú
    • 10.2 Thư mục
  • 11 Đọc thêm
  • 12 Liên kết ngoài

Thân thếSửa đổi

Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên khác là Nguyễn Phúc Kiểu. Ông là hoàng tử thứ 4 của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang. Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức 25 tháng 5 năm 1791 tại Chùa Khải Tường thuộc làng Tân Lộc, Gia Định, trong lúc đang xảy ra Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787 – 1802).[1]

Thái tửSửa đổi

Xem thêm : Gia Long và Nguyễn Phúc Cảnh
Con thứ nhất của nhà vua Gia Long là Hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh mất sớm vào năm 1801. Do Thái tử Cảnh là người con chịu nhiều tác động ảnh hưởng của đạo Gia Tô từ Pháp nên sau khi hoàng tử Cảnh qua đời, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn của mình ( con của hoàng tử Cảnh ) làm người kế vị vì sợ những tác động ảnh hưởng của Pháp tới triều đình .Mặc dù có nhiều đình thần phản đối ( đặc biệt quan trọng là Nguyễn Văn Thành ) nhưng vua Gia Long vẫn quyết định hành động chọn Nguyễn Phúc Đảm làm người kế vị. Hoàng tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Gia Tô và không có tình cảm với người Pháp – tư tưởng này giống với Gia Long. Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm được phong Hoàng thái tử và từ đó sống ở điện Thanh Hòa để quen với việc trị nước .Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang, Đặng Việt Thủy và Đặng Thành Trung, Minh Mạng là người được Gia Long lựa chọn truyền ngôi, không chỉ vì năng lượng mà còn vì kỳ vọng gửi gắm vào ông thực thi chủ trương thoát khỏi tác động ảnh hưởng và thủ đoạn ép chế của người Pháp, [ 2 ] [ 3 ] bởi khi còn sống, Gia Long đã chịu ơn người Pháp và không hề ra mặt xử lý những xích míc nhằm mục đích thoát khỏi tác động ảnh hưởng đó. [ 4 ]

Chính sách ngoại giao với phương Tây thời Minh Mạng

Sau hai cuộc cách mạng tư sản và công nghiệp, chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bành trướng ra toàn thế giới. Rất hiếm thấy một quốc gia châu Á nào còn giữ được nền độc lập thực sự trước làn sóng thực dân này. Xem xét chính sách ngoại giao và phương thức ứng xử đối với Công giáo thời Minh Mạng trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, tác giả vạch ra sự phiến diện của quan điểm cho rằng chính sách ‘bế quan toả cảng’ của nhà Nguyễn là nguyên nhân mất nước thế kỷ XIX.

Lâu nay trong nhận thức lịch sử dân tộc vẫn sống sót quan điểm phê phán chủ trương “ bế quan toả cảng ”, đóng cửa quốc gia của triều Nguyễn đã dẫn tới thảm kịch là Nước Ta bị mất độc lập. Tuy nhiên tới những năm gần đây, bằng các điều tra và nghiên cứu sâu hơn trong chủ trương ngoại giao của nhà Nguyễn đã cho thấy thực tiễn không trọn vẹn như vậy. Đặc biệt Đại Nam thời vua Minh Mạng, quốc gia đã không trọn vẹn ngừng hoạt động mà chỉ hoàn toàn có thể coi là sự cẩn trọng thiết yếu trước những đổi khác của thời đại và chính Minh Mạng cũng rất nỗ lực để đưa quốc gia của ông hoà chung nhịp điệu ấy, chỉ tiếc rằng ông không đủ thời hạn cho kế hoạch dài hơi mà ông đã có dự tính triển khai từ rất sớm. Qua nguồn tư liệu từ chính sử nhà Nguyễn cho thấy suốt thời hạn trị vì, Minh Mạng đã điều tra và nghiên cứu và khám phá kỹ phương Tây vừa để triển khai cho giải pháp phòng thủ chống lại phương Tây, vừa là một lựa chọn và rốt cuộc gật đầu một đường lối mới với những cách nhìn và giải pháp mới. Tuy nhiên phái bộ tiên phong tới châu Âu do ông cử đi đã không hề triển khai được ý đồ của triều đình buộc phải quay về mà không được tiếp ở cấp cao tại Pari cũng như tại Luân Đôn ( 1. Khi đoàn sứ giả trở về nước thì vua Minh Mạng đã mất do ngã ngựa, thế cho nên tất cả chúng ta không hề tìm hiểu và khám phá được hồi kết của chủ trương ngoại giao với người Tây dương dưới thời vua Minh Mạng, tuy nhiên không hề phủ nhận rằng nhận thức về phương Tây của ông đã đưa tới trạng thái ấm lạnh khác nhau ở từng thời kỳ nhưng sau cuối là sự biến hóa lớn lao về mặt tư tưởng là gật đầu thực tiễn và ông chuẩn bị sẵn sàng lan rộng ra cánh cửa vương quốc để đón luồng gió mới, tuy nhiên thời hạn đã không ủng hộ ông .
Tiếp nhận vương triều kho bước vào tuổi 30 – ở độ tuổi mà nhận thức chính trị sắc bén nhất, đồng thời ở độ tuổi này đủ thời hạn cho ông đổi khác quan điểm của mình trước những yếu tố lớn. Đất nước mà ông tiếp quản vừa trải qua một thế kỷ dài loạn lạc binh đao, gần 20 năm cầm quyền của vua Gia Long chưa thể quy tụ lòng người về một mối. Triều đình vẫn phải lựa chọn giải pháp phân quyền có điều kiện kèm theo : trực trị miền Trung, gián trị miền Bắc và miền Nam qua việc lập Bắc thành tổng trấn và Gia Định thành tổng trấn. Tiếp nối vua cha Gia Long, ông vừa lao củng cố nội trị, tăng trưởng kinh tế tài chính, giáo hoá thuần phong, vừa theo dõi và quan sát các nước trong khu vực, đề phòng mối hoạ từ bên ngoài, mặt khác Minh Mạng còn gánh thêm một trách nhiệm, một nỗ lực xoá bỏ quuền lực địa phương khi nó trở thành một trở lực cho sự thống nhất chủ quyền lãnh thổ khi những ý đồ mang đặc thù cát cứ, ly tâm muốn tách khỏi triều đình qua hành động của Lê Văn Duyệt, Nguyễn Thành Nhân mà ông được tiếp đón ( dù cho những thông tin tới tai ông có đúng mực hay không ) cũng khiến ông thận trọng và cẩn trọng hơn với các cựu thần có công thiết lập vương triều. Để rồi từ đó hoàn toàn có thể đi tới liên hệ hành vi tiêu diệt công giáo của ông cũng chính là cách hạ bệ uy tín cá thể của những người mà ông lo rằng sẽ tận dụng lực lượng này để chiếm đoạt quyền lực tối cao. Nhãn quan chính trị của Minh Mạng bị chi phối can đảm và mạnh mẽ bởi những sự kiện liên tục xảy ra với quốc gia ông và các nước láng giềng khi thời kỳ Minh Mạng cầm quyền, các thế lực thực dân mở màn can thiệp vào Khu vực Đông Nam Á theo những phương pháp đấm đá bạo lực hơn thì hiển nhiên bằng tổng thể năng lực hoàn toàn có thể, ông nỗ lực nâng cao năng lực phòng vệ cho quốc gia của mình là lựa chọn số một.

Thái độ của Minh Mạng với Kitô giáo và nguyên nhân

Chắc hẳn Minh Mạng không hề quên người trợ giúp, đồng thời là cố vấn thân cận của cha ông cũng chính là một giáo sĩ truyền đạo. Và chính vị giáo sĩ này đã mang tới bản hiệp ước giữa Nguyễn Ánh với triều đình Pháp mà nếu nhìn lại nội dung của bản hiệp ước này, người ta sẽ không hề vô tư khi xem hoạt động giải trí giáo sĩ chỉ là sự truyền đạo thường thì ( 2 ). Từ Bá-đa-lộc, Nguyễn Ánh đã hy vọng nhận được sự viện trợ về mặt vật chất, nhân lực, và những viện trợ quân sự chiến lược từ chính phủ nước nhà Pháp để đánh lại nghĩa quân Tây Sơn mà trong con mắt của người Pháp đó là những kẻ tiếm quyền. Trong khi đó, Pigneau lại hy vọng sẽ nhận được sự bảo trợ của nhà vua cho những hoạt động giải trí truyền giáo của ông. Chắc hẳn điều này sớm được đặt ra trong những bàn luận của quan lại triều đình Huế và nó cũng tác động ảnh hưởng tới nhận thức của Minh Mạng khi ông bước vào tuổi trưởng thành đưa tới sự ác cảm của ông với Kitô giáo. Ngay cả trước khi Minh Mạng lên ngôi nhà vua thì lối ứng xử của ông với các Fan Hâm mộ Kitô giáo đã dẫn tới sự lo ngại của hội đồng giáo dân khi ông lên nắm quyền. Đầu năm 1820, người ta đã quan sát thấy : với các Fan Hâm mộ Kitô giáo và người ngoại bang, người ta quan ngại rằng chủ trương trục xuất khỏi vương quốc hoặc tàn phá họ sẽ được phát hành vì ông ta ( Minh Mạng ) là quân địch không đội trời chung của cả hai loại người kể trên ( 3. Tuy nhiên, trong quá khứ không phải ông là người tiên phong thi hành giải pháp cứng rắn với tôn giáo này và cũng không phải ngay khi cầm quyền, ông đã thi hành ngay giải pháp đuổi giáo sĩ và giết hại giáo dân. Sự khắc nghiệt trong chủ trương của triều đình Huế so với Kitô giáo và giáo sĩ chỉ thực sự mở màn từ năm 1833. Cũng nên nhìn nhận rằng chủ trương cấm đạo của vua Minh Mạng trọn vẹn nhắm vào mục tiêu duy trì trật tự xã hội mà nhà vua tin rằng là bị đe bởi những du hặc của đạo Gia tô ( 4 ). Nhất là khi những cuộc khởi nghĩa hay thủ đoạn lật đổ ông bị phát hiện đều có sự tham gia của lực lượng giáo dân và sự ủng hộ của giáo sĩ quốc tế như cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, hay hành vi lôi kéo giáo dân và giáo sĩ trong thủ đoạn lật đổ ngai vàng của người cháu gọi ông bằng chú ruột. Vì vậy không nên nhìn nhận chủ trương tôn giáo của triều Nguyễn như một bộc lộ của “ bế quan toả cảng ”. Sự ác cảm của Minh Mạng so với Kitô giáo còn là do những thông tin xô lệch từ những cận thần mang tới cho ông : Tả phó đô ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt tâu rằng : “ … Mã Song khai rằng thầy thuốc nước hắn, nhân người sắp chết, khoét lấy con mắt, phơi khô, hợp với hai vị a nguỵ và nhữ hương, tán nhỏ chế thuốc, trị bệnh ho đờm. Lại tục truyền rằng tà giáo Tây dương thường khoét mắt người, và cho một trai, một gái, ở chung nhà có tường ngăn cách, lâu ngày động dục tình, nhân đấy đập cho chết bẹp, lấy nước ( xác chết đó ) hoà làm bánh thánh, mỗi khi giảng đạo cho mọi người ăn, khiến cho mê đạo không bỏ được. Cả đến người theo đạo, khi trai, gái, lấy vợ chồng, thì đạo trưởng đem người con gái vào nhà kín, với danh nghĩa là giảng đạo, thực là để dâm ô ” ( 5 ). Điều này mang tới mối lo lắng thực sự cho nhà vua bởi theo nhãn quan Nho giáo của ông thì đó đều là những điều cấm kỵ, phạm vào thuần phong mỹ tục – nền tảng đạo đức cơ bản mà ông muốn dựa vào để giáo hoá dân chúng. Dưới thời vua Gia Long, do mối quan hệ thân thương trước kia với những giáo sĩ người Pháp mà tình cảm của nhà vua với hệ tư tưởng mới này khá cởi mở. Tuy nhiên vì một bê bối chính trị nào đó ( 6 ), vua Gia Long cũng từ từ lạnh nhạt với các cố vấn người Pháp dù vẫn liên tục duy trì mối quan hệ nhưng sự bành trướng của người dân châu Âu ở Khu vực Đông Nam Á khiến vua Gia Long thêm lo lắng, nhất là khi người Anh chiếm Tân Gia Ba. Nhà vua thấy cần phải giao hảo với người phương Tây nhưng không hề biệt đãi một vương quốc đặc biệt quan trọng nào ( 7 ). Hẳn nhiên những biến hóa trong ứng xử của vua cha với những người bạn cũ sẽ ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ tới vị thái tử thứ 4 khi lên nắm quyền, ở đúng thời gian các vương quốc phương Tây nỗ lực thương lượng với Đại Nam để tìm đạt những độc quyền chính trị và thương mại, những mưu toan và mục tiêu của họ làm cho triều Nguyễn vô cùng lo lắng. Bản thân Minh Mạng cũng cẩn trọng cao ảnh hưởng tác động cảu đạo Công giáo bởi ông nhận thấy các nước châu Á ( đáng chú ý quan tâm là Ấn Độ và nhiều nước Khu vực Đông Nam Á ) từng mở cửa quan hệ với các liệt cường phương Tây đều bị biến thành thuộc địa : Trong khi đó các nước Nho học khác triệt để ngăn cấm Kitô giáo vẫn được bảo đảm an toàn như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Từ những phái viên được cử tới Trung Quốc, chắc như đinh Minh Mạng biết điều gì xảy ra với các Fan Hâm mộ Kitô giáo ở những vương quốc này và hoàn toàn có thể ông nỗ lực theo gương họ ( 8 ).

Sự thay đổi trong chính sách ngoại giao với phương Tây

Không thể phủ nhận sự ác cảm của Minh Mạng với Kitô giáo là rào cản, trở ngại trong tiếp xúc của ông với các nước phương Tây. Tuy nhiên điều đó không hề ngăn cản ông tìm hiểu và khám phá hay hoài nghi mọi thứ đến từ quốc tế, bản thân ông là một người yêu thích địa lý, lịch sử dân tộc, kỹ thuật và ý tưởng khoa học phương Tây. Tự ông đã mày mò khám phá cách sử dụng “ cái ống nhòm ” do người Tây dương khuyến mãi và không tiếc lời khen là tuyệt diệu ( 9 ). Dù cho chưa có chủ trương thôi thúc quan hệ giao thương mua bán nhưng sự tiếp xúc với các nước phương Tây trải qua quan hệ kinh doanh vẫn diễn ra chính thức với tư cách triều đình. Năm Minh Mạng thứ 2 ( 1821 ), có người Phú Lãng Sa dâng quốc thư và sản vật địa phương cùng đến với Thắng, đậu thuyền ở TP. Đà Nẵng. Đem thư dịch là xin thông thương. Vua giao đìh thần bàn, rồi hạ lệnh cho ty Thương bạc đưa thư vấn đáp nhận cho, và biếu nhiều phẩm vật ( 10 ). Trong chính sử còn ghi nhận viên quan Bộ Hộ là Lê Công Tường phụng mệnh triều đình đi bán đường cát cho người Pháp ở cửa biển Thành Phố Đà Nẵng, nhẹ dạ ăn của đút sau bị cắt chức phải phát đi hiệu lực thực thi hiện hành ( 11 ). Đầu thời Minh Mạng ( 1820 ), đã có thương nhân Hoa Kỳ đến giao thương mua bán ở Gia Định : “ Thành Gia Định dâng chim hạc đen và lợn vàng nước Ma Ly Căn ” ( 12 ). Tuy nhiên, khi thương nhân người Anh đến không mang theo quốc thư của triều đình là không đủ tư cách nên bị phủ nhận bởi không hợp theo luật lệ của nước Đại Nam, nhân đó nhà vua sai hữu ty bàn định điều lệ về việc các nước đến buôn, trong đó không phân biệt thuyền buôn đến từ các nươc trong khu vực hay đến từ Tây dương đều tuân theo pháp luật chung ( 13 ). Thái độ của Minh Mạng khá ôn hoà khi công bố toàn bộ các vương quốc đều được tự do mậu dịch với điều kiện kèm theo phải tôn trọng luật lệ Đại Nam. Tình hình của các vương quốc láng giềng cũng ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ tới thái độ của nhà vua so với người Tây dương, đặc biệt quan trọng là người Anh. Nhân sứ giả nước Xiêm tới, vua Minh Mạng có buổi bàn luận về cuộc cuộc chiến tranh Anh – Miến Điện với phái đoàn Xiêm “ Nước Xiêm và nước Miến Điện có thù với nhau đời đời, nay nước Miến Điện bị người Hồng Mao đánh, người Xiêm có hả lòng không ? ” Sứ giả vấn đáp “ Có ”. Vua cười nói rằng “ Nước Xiêm có nước Miến Điện như nhà có phên giậu, nếu Hồng Mao đánh mà lấy được, thì thế rồi tất đến nước Xiêm. Người mưu việc nước Xiêm nên lo chứ chẳng nên vui ”. Theo nhà vua người Xiêm nên lo vì sau đó nước Xiêm sẽ lâm vào tình thế nguy hại hơn bởi láng giềng của họ sẽ là một nước phương Tây hùng mạnh ( 14 ). Dù mang trong lòng nỗi lo về sự xâm nhập của phương Tây ta còn thấy nhà vua có ứng xử khá tế nhị, tánh làm mất lòng hoặc chí ít là khong cho người Anh hay người Pháp có “ duyên cớ ” để can thiệp vào việc làm nội bộ. Sự thật là Minh Mạng lo lắng rằng nếu nhường cho người Pháp một vài độc quyền thương mại thì người Anh cũng sẽ yên cầu, điều đó còn cho thấy sự khôn khéo, thận trọng tỏng quan hệ bang giao với các nước Tây dương của nhà vua : “ Năm trước nước Anh Cát Lợi nhiều lần dâng lễ, trẫm đều phủ nhận không nhận, nay chẳng lẽ lại cho Phú Lãng Sa thông hiếu ” ( 15 ). Sự thận trọng trong quan hệ giao thương mua bán với người phương Tây là có địa thế căn cứ kho sự nhòm ngó ngày càng lộ liễu. Binh thuyền nước Phú Lãng Sa đến đậu ở cửa biển TP. Đà Nẵng muốn xin thông hiếu tuy nhiên lại đưa hung tin về việc người Anh muốn xâm lăng Quảng Đông và nhắn nhủ triều đình Huế đừng giúp Quảng Đông, cạnh bên đó cẩn trọng triều đình Huế về mối hệ luỵ này, rồi lấy cớ khảo sát khoa học lên núi Tam Thai xem xét, đòi vẽ địa đồ Bắc Thành. Tiếp nhận thông tin của người Pháp, nhà vua cả cười mà rằng : “ Nước ấy muốn mượn việc đó làm ơn với ta để mong đạt kế muốn giao hiếu đó thôi. Nước Hồng Mao xâm lấn nước Thanh có can hệ gì đến ta ! ” Tuy nhiên người ta lại thấy ngược lại, thông tin từ các nước láng giềng là mối chăm sóc đặc biệt quan trọng của nhà vua. Năm Minh Mạng thứ 7 ( 1826 ), khi sứ giả Xiêm vào kinh yết kiến, nhà vua lại một lần nữa bàn luận với sứ giả về cuộc chiến tranh giữa Anh và Miến Điện. Sau lại mở địa đồ trỏ bảo bầy tôi rằng “ Trẫm nghe nói nước Xiêm La cùng nước Hồng Mao có hiềm khích, chợt có dùng binh thì Hà Tiên là chỗ hai nước xung đột nhau, ta nên giám sát thế nào để phòng việc không ngờ ” ( 16 ). Một cách gián tiếp, triều đình Huế đã bộc lộ mối lo lắng của mình trước các thế lực Tây dương bằng hành động mang tính thăm dò những cơ sở mà người phương Tây đặt trong khu vực. Năm Minh Mạng thứ 4 ( 1823 ), nhà vua sai Cai cơ Ngô Văn Trung và Tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng đi Hạ Châu, vua dụ rằng : “ Chuyến đi này không phải để mua hàng hoá, chính là muốn biết núi sông, phong tục, nhân vật của quốc tế. Bọn ngươi đến nơi phải xem kỹ la bàn, ghi chép rõ ràng cho biết phương hướng ”. Động thái thăm dò phương Tây của triều đình Huế cũng được người quốc tế nhìn nhận : “ Ngoài việc triển khai những thương vụ làm ăn cho nhà vua, các phái viên đi sứ còn làm trách nhiệm tìm hiểu những cơ sở phương Tây trong vùng. Năm 1825, vua đã gửi hai đội vũ trang và một đoàn quan lại tới vùng Singapour để mua hàng len và hàng thuỷ tinh. Sau mới phát hiện là những viên quan này cũng tới để tường trình những điều kiện kèm theo và quan điểm của những thuộc địa châu Âu ở eo Malacca ” ( 17 ). Nguỵ trang dưới mục tiêu mua hàng hoá và vũ khí, Minh Mạng đã phái nhiều đoàn sứ giả đến các nước trong khu vực Khu vực Đông Nam Á, Nam Á, đặc biệt quan trọng là Khu vực Đông Nam Á hải đảo để tìm hiểu và khám phá những hoạt động giải trí của người phương Tây ở cơ sở của họ. Theo thống kê của Giáo sư Chen Ching-ho, từ năm 1778 đến năm 1847, không kể 18 cuộc đi sứ không có cứ liệu đúng mực, ông đã liệt kê có tới 11 cuộc tới Batavia, 6 cuộc tại Singapour, hai cuộc xuống vùng Tiều tây dương, 2 lần tới Penang, 2 lần tới Semarang, 2 lần đến Luzon, 1 lần đến Joho và 1 lần đến Malacca. Không tính những cuộc đi sứ mà cứ liệu chưa đúng chuẩn thì trong tổng số 29 chuyến đi xuống vùng Hạ Châu thì có tới 18 chuyến đi được triển khai dưới thời vua Minh Mạng. Một tỷ lệ cao hơn hẳn cho thấy sự chăm sóc của nhà vua tới vùng biển này, nơi mà người phương Tây đã xác lập được địa thế căn cứ từ lâu.
Có lẽ những báo cáo giải trình của phái viên đi sứ không ít đã làm đổi khác chủ trương ngoại giao của triều đình Huế, dù vẫn thận trọng khước từ ký kết những hiệp ước thương mại chính thức với các vương quốc phương Tây nhưng Minh Mạng lại không ngăn cản các thương gia đên kinh doanh ở Nước Ta. Năm 1825, nhà vua còn cho gửi thư hỏi vị khâm sứ Anh ở Tân Gia Ba tại sao các thương nhân Anh lại không tới kinh doanh tại các thương khẩu Nước Ta. Ngoài ra trong ghi chép của những phái viên đi sứ cũng hé cho tất cả chúng ta biết trách nhiệm quan trọng mà triều đình Huế phó thác cho họ. Tiêu biểu nhất là ghi chép của Phan Huy Chú trong Hải trình chí lược khi Phan tự nhận việc ghi lại về sự trạng của người Man Di ở các hòn đảo xa, tình hình người vật các xứ lạ như góp thêm phần nhỏ cho việc “ quan phong ” ( 18 ) của Thánh triều. Rất hoàn toàn có thể việc ghi lại Hải trình chí lược là nhu yếu của Minh Mạng so với phái viên Phan Huy Chú bởi trong lời dẫn, Phan gián tiếp ám chỉ điều này. Sách làm xong vào tháng 5 ( Âm lịch ) năm Minh Mạng thứ 14 ( 1833 ) thì tháng 9 năm ấy Phan lại được khôi phục chức vụ Tư vụ ngạch ngoại giao bộ Công, chứng tỏ Minh Mạng nhìn nhận cao việc làm của phái bộ trong chuyến công cán tới Hạ Châu năm trước. Trong những ghi chép của Phan Huy Chú, Lý Văn Phức hay Cao Bá Quát là những bản được biết đến nhiều nhất, người ta thấy rằng những sứ giả Nước Ta tỏ ra không chăm sóc nhiều lắm tới dân cư bản xứ mà quan tâm nhiều hơn tới những hoạt động giải trí kinh tế tài chính, mạng lưới hệ thống hành chính, tổ chức triển khai quân sự chiến lược và sự cạnh tranh đối đầu của người Tây dương cùng kỹ nghệ văn minh của họ. “ Hồng Mao ở cách Đại Tây Dương đi thuyền mất hơn 5 tháng. Chỉ vì tàu thuyền của họ vũ khí sắc bén, nên họ hoàn toàn có thể vượt biển khơi mà cướp hòn đảo xa, chiếm lấy mà thống trị. Mấy trăm năm nay người Đồ Bà bèn trở thành tôi đòi của họ, phải chia nhau vào ở nơi rừng núi, chịu nộp thuế lệ. Tuy có lúc muốn chống lại người Hồng Mao nhưng sức không làm nổi, đành để cho họ trói buộc mà chịu sai khiến ” ( 19 ). Qua đó Phan Huy Chú đã chỉ ra nguyên do mất nước không hề cưỡng lại của người Đồ Bà trước sự báo cáo giải trình của những đoàn đi sứ xuống vùng Hạ Châu mà Minh Mạng đã nhanh gọn đốc thúc việc đóng tàu thuyền theo kỹ nghệ phương Tây, và thành công xuất sắc tiên phong đến vào năm 1839.

Về thủ tục hải quan của Riau, ghi chép của Phan Huy Chú cho ta thấy sự gọ nhẹ và thái độ không chút e dè khi tiếp đón những đoàn thuyền từ xứ khác tới ở những trụ sở do người Tây dương quản lý: “Khi thuyền mới đến thì đã thấy một chiếc thuyền tuần tra treo cờ trắng đi tới. Có 5 người lính tới hỏi xem thuyền khách có bao nhiêu người, đi hướng nào. Họ biên chép rồi đi ngay”. Tường trình này có đưa tới sự so sánh để rồi thay đổi thủ tục hải quan mà triều đình Minh Mạng tiến hành đối với các thuyền buôn đến từ nước ngoài hay không? Song ta thấy rằng tới những năm cuối triều Minh Mạng, các sứ thần Tây dương đến Việt Nam được tiếp đón cởi mở và thân thiện hơn. Mục lục châu bản triều Nguyễn năm Minh Mạng thứ 19 còn ghi lại chi tiết cảnh giao thương diễn ra dưới thuyền của người Anh trong không khí tôn trọng, nhiệt thành: “Võ Văn Giải, Lý Văn Phức tâu: “Tối ngày mùng 6 này, phụng dụ tới Đà Nẵng để tiếp chuyện với người Anh Cát Lợi tới Đà Nẵng hôm trước. Lúc tới tàu thì chủ tàu là Yết Giả chào mừng vui vẻ mời ngồi nói chuyện và xem hàng hoá, lựa mua một vài hàng tốt để đem về dâng. Hai bên đều tỏ ý nhã nhặn có lễ độ cho mời người dưới thuyền lên bờ mua đồ cần dùng”. Trong khi trước đó thủ tục hải quan của triều đình Huế khá chặt chẽ với nhiều công đoạn, thông thường tàu thuyền các nước đến cảng Đà Nẵng. sau khi thông báo có quốc thư và lễ vật xin đệ trình lên nhà vua với các quan sở tại, tàu thuyền của họ sẽ được cập cảng, hiển nhiên phải bị khám xét, sau đó được cử lên bờ có sự giám sát của quan binh địa phương mua những nhu yếu phẩm cần thiết như thực phẩm, nước uống, than củi… Và tất cả ở lại trên tàu chờ quan địa phương viết báo cáo về kinh xin chỉ thị của nhà vua. Thời gian mà họ phải đợi tính từ khi tàu cập cảng có thể là 10 hoặc 15 ngày(20).

Kết luận

Thế kỷ XIX là thời kỳ chuyển hướng lịch sử dân tộc không riêng gì với Nước Ta mà cũng là tình hình chung của nhiều nước phương Đông khi các thế lực thực dân đã can thiệp vào khu vực một cách trực tiếp hơn. Lúc bấy giờ, các nước phưong Tây đã triển khai xong hai cuộc đại cách mạng là cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản cũng dần chuyển từ tiến trình tự do cạnh tranh đối đầu sang quy trình tiến độ đế quốc thì phương Đông nói chung, trong đó có Nước Ta vẫn ở thời kỳ phong kiến. Nhà Nguyễn được dựng lên trong toàn cảnh quốc gia trải qua một thời kỳ chia cắt lê dài, sự thống nhất về chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ mới chỉ đạt được tương đối, Minh Mạng phải gánh vác trách nhiệm đưa quốc gia của ông bước qua quá trình khủng hoảng cục bộ tuy nhiên những đổi khác khôn lường của tình hình khu vực đã buộc ông phải lựa chọn một thái độ thận trọng, nhiều lúc là cẩn trọng cao. Dưới thời vua Minh Mạng, pháp luật về việc cho tàu thuyền phương Tây chỉ được đậu ở cửa biển TP. Đà Nẵng được thực thi ngặt nghèo nhất. Đạo dụ năm 1835 biểu lộ thái độ nhất quyết của nhà vua : “ … Tàu Tây đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được vào, phép nước rất nghiêm, chẳng nên làm trái … Từ nay người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới cho vào cửa biển kinh doanh, người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hán, không được ghé vào cửa khác, có lỗi ” ( 21 ). Chỉ cho phép tàu nước Tây được đậu tại cửa biển Thành Phố Đà Nẵng còn là mục tiêu tránh sự nhòm ngó bởi cửa biển này cách kinh đô Huế 100 km, một khoảng cách hoàn toàn có thể coi là bảo đảm an toàn. Có thể thấy chủ trương đối ngoại cảu Minh Mạng so với các nước phương Tây khá mềm dẻo, tế nhị bằng một nỗ lực cao nhất tránh làm mất lòng các nước thái cường cùng dự tính khám phá để rồi nỗ lực đưa quốc gia tiến gần hơn phương Tây theo cách của ông mà vẫn giữ được những nền tảng đạo đức cơ bản. Tuy nhiên cuộc cuộc chiến tranh nha phiến năm 1839 bùng nổ với sự can thiệp bằng vũ lực của người Anh ở Quảng Châu Trung Quốc càng khiến vua Minh Mạng ý thức được nguy cơ mà Nước Ta phải đương đầu trước sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân : Một mặt nhà vua cho phòng vệ những nơi hiểm yếu trên bờ biển Đại Nam, đặt thêm pháo đài trang nghiêm ở Hải Phòng Đất Cảng, xây thêm pháo đài trang nghiêm ở cửa biển Thị Nại, chia lính thú tuần phòng ở hòn đảo Côn Lôn, hòn đảo Phú Quốc. Mặt khác, chính Minh Mạng trên cơ sở thăm dò thái độ của các cường quốc châu Âu đã sửa đổi chủ trương ngoại giao. Năm 1840, nhà vua cho người di Penang rồi sang Calcutta xem người Anh dự bị chiến sự Nước Trung Hoa thế nào, cho tàu sang Djakara xem người Hoà Lan toan tính thế nào. Trong châu bản triều Minh Mệnh còn ghi lại khi thị lang Võ Đức Khuê điều trần về việc thông thương, có ý kiến đề nghị không nên để thuyền ngoại bang tới Đại Nam, và không nên để người Đại Nam tới ngoại bang vì sợ người ngoại bang tới thì việc nước sẽ bị khuy du như nhà Thanh để người Anh tới mà Trung Quốc rối loạn. Vua Minh Mạng cho bản điều trần ấy là bất thông “ lời nói không ý thức, không thi hành được ” ( 22 ). Trong văn hoá đầu thế kỷ XIX, sự xâm nhập của phưong Tây sang phương Đông véctơ lực không hề cưỡng lại thì Minh Mạng vẫn là con người của truyền thống cuội nguồn, thế nên sự “ gật đầu ” phương Tây của ông cũng trên tâm trạng vừa ngần ngại, vừa cởi mở lại xen kẽ tam lý không ổn định vừa ngưỡng mộ, vừa xem thường với một nỗ lực muốn thoát khỏi nhưng bị chi phối bới nhận thức về sức mạnh không hề cưỡng chế trước lợi thế kỹ thuật phương Tây. Đó chính là thử thách trong việc lựa chọn lối ứng xử trước một xu thế mới. Tuy vậy xuyên suốt trong chủ trương ngoại giao với người Tây dương dưới thời vua Minh Mạng vẫn toát lên sự mềm dẻo, tính thích nghi với những điều kiện kèm theo mới và thực trạng mới. Lịch sử không hề đặt ra những chữ “ nếu ”, vì thế tất cả chúng ta không hề biết được nỗ lực tiếp theo của ông như thế nào trong dự tính hoá giải phương Tây kho ông đã nhận ra rằng ông không hề không Open quốc gia của mình. CHÚ THÍCH : 1. Xem Lê Thành Khôi, Le Viet Nam, Histoire et civili-sation, 1955, tr. 370. 2. Nhà vua Nam Hà và hội đồng nhà nước sẽ nhường vĩnh viễn cho nhà vua Cơ đốc, những người thừa kế và nối ngôi sau này cảng biển và chủ quyền lãnh thổ Han – san ( vịnh Tu – ron và bán đảo ) và những hòn đảo lân cận từ Faifo phía Nam và Hai wen phía Bắc. Mọi tôn giáo và tín ngưỡng đều được tự do. 3. John White, A Voyage to Cochin China, tr. 267. 4. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế xã hội Nước Ta dưới thời các vua triều Nguyễn, Nxb Văn học, H. 2008. 5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, t. 4, Nxb Giáo dục đào tạo, H. 2007, tr. 837. 6. Mặc dù vẻ bên ngoài ông không có biểu lộ đổi khác nào trong cách đối xử của ông với những sĩ quan Pháp Giao hàng mình, tuy nhiên người ta cho rằng tính cách người Pháp đã làm tổn thương lớn đến lòng quý trọng của ông từ khi ông được biết về cách đối xử bất nhân và mang tính xúc phạm mà mái ấm gia đình xấu số của nhà vua phải chịu đựng bởi đám người hèn kém, dã man và vô đạo đó. Dẫn theo J. Barrow, Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà năm 1792 – 1793, Nxb TG, H. 2008, Nguyễn Thừa Hỷ dịch. 7. Nguyễn Thế Anh, Sdd, tr. 229. 8. Choi Byung Wook, Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb TG, H. 2011, tr. 111. 9. Đại Nam thực lục, t. 2, tr. 628. 10. Nt, tr. 131. 11. Nt, tr. 17. 12. Nt, tr. 63. 13. Nt, tr. 226. 14. Nt, tr. 372. 15. Nt, tr. 388. 16. Nt, tr. 522. 17. Xem Wong Lin Ken, 1960, tr. 155 – 156. 18. Quan phong là quan sát phong tục, thời cổ vua Trung Quốc cử người ghi chép phong tục của các nước để phân biệt cái hay, cái dở. 19. Phan Huy Chú, Hải trình chí lược, bản dịch của Phan Huy Lê, Tạ Trọng Hiệp, tr. 151 – 152. 20. Taboulet, Georges, La Geste francaise en Indochine, dẫn theo Võ Văn Dật, Lịch sử TP. Đà Nẵng 1306 – 1950, 1974, tr. 136. 21. Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1998, tr. 198. 22. Châu bản triều Minh Mạng, tập 79, tờ 90-92. Nguồn : TẠP CHÍ XƯA VÀ NAY SỐ 387 THÁNG 9-2011

fShare

Tweet
Bạn hoàn toàn có thể chăm sóc :

Đến thời Minh Mạng, nhà Nguyễn quan hệ với các nước phương Tây như thế nào?

A .

Khước từ dần quan hệ đối với các nước phương Tây.

B .

Đặt quan hệ thân thiện với các nước phương Tây.

C .

Thực hiện chính sách mở cửa để quan hệ với phương Tây.

D .

Thi hành chính sách tương đối mở cửa đối với các nước phương Tây.

Đáp án và lời giải

Đáp án :A

Lời giải :Đáp án: A
Đáp án : AVậy đáp án đúng là A .
Câu hỏi thuộc đề thi sau. Bạn có muốn thi thử ?

Bài tập trắc nghiệm 15 phút Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX) – Lịch sử 10 – Đề số 3

Làm bài

Chia sẻ

Một số câu hỏi khác cùng bài thi.

  • Năm 1804, nhà Nguyễn đổi tên nước là

  • Trong chính sách đối ngoại của mình ở giai đoạn đầu, Gia Long tỏ thái độ như thế nào đối với các nước phương Tây?

  • Năm 1831 – 1832, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính chia

  • Trong các năm 1840 – 1848, nhà Nguyễn đã đối phó với cuộc khởi nghĩa của người Khơ-me ở vùng nào?

  • Đến thời Minh Mạng, nhà Nguyễn quan hệ với các nước phương Tây như thế nào?

  • Trong chính sách đối ngoại của triều Nguyễn giai đoạn đầu, vua Gia Long tỏ thái độ như thế nào đối với các nước phương Tây?

  • Dưới thời nhà Nguyễn, bộ Hoàng Việt luật lệ còn được gọi là

  • Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế vào năm nào?. Đặt niên hiệu là gì?

  • Ý nghĩa cải cách hành chính của vua Minh Mạng đối với nước ta hiện nay?

  • Thành tựu kiến trúc nổi tiếng dưới triều Nguyễn hiện nay được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới là

Một số câu hỏi khác có thể bạn quan tâm.

  • Cho hình chóp S.ABCD có đáy ABCD là hình bình hành. Trên các cạnh SA, SB, SC lần lượt lấy các điểm A ’, B ’, C ’ sao cho
  • Cho hình chóp S.ABCD có đáy ABCD là hình thang với hai cạnh đáy là AD và BC trong đó
  • Một khối lăng trụ tam giác đều có thể tích là
  • Tính thể tích V của hình lập phương
  • Cho khối lăng trụ
  • Cho hình lăng trụtam giác đều ABC.A ’ B’C ’ có AB = 2 a ,
  • Cho khối lăng trụ
  • Cho khối lăng trụ đứng
  • Diện tích toàn phần của một hình hộp chữ nhật là
  • Cho hình lập phương ABCD.A ’ B’C ’ D ’ có diện tích quy hoạnh mặt chéo ACC’A ’ bằng

Đến thời Minh Mạng, triều Nguyễn quan hệ với các nước phương Tây như thế nào?

A .

Khước từ quan hệ với các nước phương Tây.

B .

Đặt quan hệ thân thiện với các nước phương Tây.

C .

Thực hiện chính sách mở cửa.

D .

Thi hành chính sách tương đối cởi mở.

Đáp án và lời giải

Đáp án :A

Lời giải :Đáp án: A
Đáp án : AVậy đáp án đúng là A .
Bạn có muốn ?

Xem thêm các đề thi trắc nghiệm khác

Xem thêm

Chia sẻ

Một số câu hỏi khác có thể bạn quan tâm.

  • Nguyên nhân nào làm cho vạn vật thiên nhiên Nước Ta khác hẳn với vạn vật thiên nhiên các nước có cùng vĩ độ Tây Á, Đông Phi và Tây Phi ?
  • Xu hướng quốc tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới diễn ra với quy mô lớn và nhịp dộ cao là điều kiện để:

  • Những trở ngại chính đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở nước ta về TNTN là :

  • Tài nguyên giữ vị trí quan trọng nhất Việt Nam hiện nay là:

  • Tài nguyên có ý nghĩa đặc biệt dối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay là:

  • Trong các tài nguyên sau loại nào bị suy giảm nghiêm trọng nhất:

  • Để phát triển kinh tế của đất nước cần phải;

  • Nguyên nhân chính làm cho Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú là;

  • Tài nguyên đất của Việt Nam rất phong phú, trong đó có nhiều nhất là;

  • Sự khác nhau cơ bản giữa đất phù sa đồng bằng sông Hồng và đất phù sa đồng bằng sông Cửu Long là: