Đánh Thức Ý Nghĩa Cuộc Đời ( Chánh Kiến Trong Đời Sống 2, Chánh Kiến Trong Đời Sống


Bạn đang xem:
Từ ngữ “ Chánh kiến “ trong Phật giáo là cả một đề tài lớn lao và được nhận thức sâu hay cạn là tùy từng trình độ am hiểu giáo lý và trình độ tu chứng. Thiết nghĩ nó hoàn toàn có thể được hiểu theo ý nghĩa thường thì là cái thấy đúng hay cái nhìn đúng. Bạn đang xem : Chánh kiến trong đời sốngThế nào là thấy đúng hay nhìn đúng ? Chánh kiến không có ý nghĩa độc lập tự chính nó ; chánh kiến là cái thấy đúng về một đối tượng người tiêu dùng nào đó. Có bao nhiêu đối tượng người dùng thì có bấy nhiêu chánh kiến và ngược lại là tà kiến. Đối tượng thì có vô vàn nên chánh kiến hay tà kiến cũng có vô vàn, không sao kể hết .
1. Chánh kiến tuyệt đối hay chánh kiến tối hậu hoặc chánh kiến siêu thế gian:
Khi chưa đạt tới trình độ “ thấy cái một trong toàn bộ và tổng thể trong cái một ”, mỗi người trong tất cả chúng ta đều có cả chánh kiến lẫn tà kiến về vô vàn đối tượng người dùng trong đời sống. Vấn đề then chốt của người hành giả là có chánh kiến nhiều hơn tà kiến hay có tà kiến nhiều hơn chánh kiến, mỗi thứ chiếm chừng bao nhiêu Xác Suất ; điều nầy quyết định hành động người hành giả nầy có liên tục tu được hay không, hoặc là có năng lực chứng đạo được hay không .Nói một cách tuyệt đối thì chỉ có những bậc giác ngộ giải thoát mới có cái thấy đúng hay cái nhìn đúng về một sự vật hay một hiện tượng kỳ lạ nào đó. Những vị nầy thấy được sự vật như thể nó là { danh từ mà Krishnamurti gọi là “ the what-is ” }. Nó là một cái gì đó không có tên gọi, là một hiện thực, một thực tại, khi người nhìn ngắm ( chủ thể ) đã thể nhập vào thực tại ấy ( khách thể ) trong trạng thái nhất nguyên. Thí dụ thấy một con chó như là con chó thuần túy, không sợ hãi, không yêu dấu hay ghét bỏ gớm ghiếc, cũng không có tâm phân biệt chó lạ hay chó quen. Hoặc thấy một người đàn bà như là người đàn bà với thuần một nghĩa ấy, không có tâm phân biệt đẹp hay xấu, giàu hay nghèo, mê hoặc hay không mê hoặc, lạ hay quen v.v … … Người đời thường sống trong quốc tế nhị nguyên đối đãi của tâm thức, luôn có tâm bám chấp hay ghét bỏ, nên không khi nào có được chánh kiến về bất kỳ sự vật gì. Mỗi người trong tất cả chúng ta mỗi ngày hoàn toàn có thể có tới hơn 20 ngàn ý tưởng sáng tạo mà hầu hết đều là vọng tưởng, khởi sinh do những cái thấy sai lầm nầy. Thấy sai ắt sẽ nghĩ sai rồi làm sai. Nghĩ sai rồi lập thành tà thuyết và Viral, ắt đưa con người đến chỗ cực ác tập thể. Hậu quả là một quốc tế điên đảo hỗn loạn đầy giết chóc đau thương .Làm thế nào phân biệt được chánh kiến với tà kiến ? Trong Trường Bộ Kinh, đức Phật có giảng rõ về 62 món Tà kiến, là những ý nghĩ và luận cứ về quốc tế và chúng sanh, vốn sai lầm đáng tiếc từ cơ bản, đưa đến vô minh và trói buộc, bít lấp con đường giải thoát .
2. Chánh kiến tương đối hay chánh kiến qui ước, hay chánh kiến thế gian:
Như vậy, một người đời thông thường hoàn toàn có thể có được chánh kiến hay không ? – Chánh kiến hoàn toàn có thể có được ở người Phật tử chịu khó học hỏi trau dồi giáo lý của đạo Phật, tuy chưa đắc đạo giải thoát, nhưng đây là một cái nhìn, một cái thấy tương đối đúng trên con đường tu tập để đạt đạo. Nói một cách dễ hiểu là : cái thấy lờ mờ, tuy còn vô minh, nhưng ít ra không sai bao nhiêu so với cái thấy của bậc giác ngộ như đức Phật, hoàn toàn có thể ví như thấy một vòng tròn thành một vòng méo kiểu ellipse, hay thấy một hình chữ nhật thành một hình thang hay hình vuông vắn. Tròn mà thành méo, chữ nhật mà thành vuông, đó hoàn toàn có thể là do tư kiến cá thể bị nhào nắn trong quá khứ bởi biệt nghiệp riêng hay cộng nghiệp chung của xã hội từng thời đại như văn hóa truyền thống, chủng tộc, nơi chốn, v.v … Đây gọi là chánh kiến tương đối hay chánh kiến trần gian hoặc chánh kiến qui ước, là một cái nhìn, một cái thấy trong quốc tế nhị nguyên đối đãi của chủ thể ( người quan sát ) và khách thể ( vật được quan sát ) .Chánh kiến trần gian nầy hoàn toàn có thể được gọi một cách thực dụng dễ hiểu là : chánh kiến trong đời sống, đây chính là đề tài của bài viết nầy. Và ở đây, thế nào là Chánh kiến ?
Chánh kiến là cái nhìn nào, cái thấy nào…. mà xuyên qua nó chúng ta có thể đi đến được bờ giác ngộ giải thoát, đến chỗ chánh kiến tuyệt đối của bậc giác ngộ. Từ ngữ “đi đến” hàm ý nghĩa là phải có sự tích cực, tinh tấn của chính bản thân mình, chứ nó không lôi kéo hay chở mình đi được nếu mình không chịu đi. Thật vậy, nếu “thấy” và không chịu tu thì cũng vô ích, rồi lại lăn lộn tranh giành chụp giựt ngoài đời, tà kiến lại mọc thêm đầy dẫy đè bẹp chánh kiến, khiến nó bị thui chột đi mất, và mình sẽ không có cơ hội phục hồi lại cái thấy ấy được nữa. Chữ “ đi đến” cũng hàm ý nghĩa rằng phải có những pháp tu kèm theo, là những bước kế tiếp. Từ ngữ “đi đến được” hàm ý nghĩa rằng theo con đường đi nầy chúng ta sẽ thành công, khác với con đường của tà kiến rằng càng đi, càng xa rời mục tiêu giác ngộ giải thoát. Đến đây chúng ta thấy rằng, người có tà kiến nhiều hơn chánh kiến thì khó có thể đi vào pháp tu Bát Chánh Đạo của Phật được, vì cái cổng trước “Chánh kiến” đã khép lại với họ. Có thể ví chánh kiến như một cái ”visa” để được phép nhập vào một quốc gia; quốc gia đó là căn nhà của Như Lai.
Dưới đây tất cả chúng ta hoàn toàn có thể có không ít thí dụ :- Thấy một người đàn ông như thể kẻ phải đem lại cho mình nhiều tiền của, hoặc thoả mãn tình dục cho mình để sanh con đẻ cái. Đây là một tà kiến vì nó không đưa đến giải thoát, chỉ làm tăng thêm tham sân si .- Thấy cõi đời nầy là nơi để hưởng phước báu hay để hưởng lạc thú. Đây là một tà kiến, vì làm nghiệp chướng thêm sâu dầy. Ngược lại, nếu thấy cõi đời nầy là cõi đọa lạc thuận tiện, thì đây là một chánh kiến, giúp nhiệt huyết tu tập. Tuy nhiên nếu nhiệt huyết tu tập với mong ý được giàu sang hay phước báu, thì đây là một tà kiến .- Thấy cõi đời hay vật chất trên đời là thuộc về mình. Đây là tà kiến, vì mai mốt chết đi hoặc gia tài khánh tận thì đau khổ vô cùng .- Thấy vợ hay chồng của mình là thuộc về mình, là một tà kiến. Ngược lại, thấy họ chỉ là một chúng sanh thông thường ; đây là một chánh kiến, vì họ hoàn toàn có thể làm nhiều điều mà mình không ngờ tới .- Thấy việc tu hành là phải triển khai, nhưng việc tận hưởng lạc thú trần gian cũng không hề bỏ lỡ. Đây là một tà kiến. Tham cả hai thứ như thế là cùng, cái nào cũng ôm lấy hết, không còn chỗ cho giác ngộ !- Tu hành cốt để chữa bệnh và có sức khoẻ là một tà kiến ( vì đây không phải là tiềm năng mà đức Phật muốn nhắm tới ), tuy nhiên nếu để giữ mạng sống liên tục tu với tiềm năng giải thoát thì là chánh kiến .
Tóm lại, theo tôi, chánh kiến lớn lao và cơ bản nhất trong đời sống của chúng ta là:
Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ.
Tôi gọi đây là “Chánh kiến lớn lao và cơ bản “, vì nếu không có nó, tức là không có cái nhìn nầy, mọi cái thấy về mọi đối tượng đều là tà kiến. Nói tóm gọn, người không có Chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy có thể được gọi là “người đầy tà kiến”. Khốn khổ thay, hầu hết nhân loại ngày nay, trong đó chúng ta là một thành phần, đều đầy tà kiến. Và danh từ “ người đầy tà kiến” sẽ được dùng dưới đây để chỉ những ai không có Chánh kiến lớn lao và cơ bản nói trên.
Xem thêm: Sự Tha Thứ Trong Cuộc Sống Thêm Hạnh Phúc Tươi Đẹp Hơn, Tha Thứ Là Một Món Quà
Bất kể là người tu hay kẻ tục, nếu không nhìn đời bằng Chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy, đều sẽ đọa lạc. Xa hơn nữa, cũng hoàn toàn có thể hiểu cõi đời là cõi đang bị đọa lạc trong cái thân xác tứ đại có sanh già bệnh chết nầy, trong khi từ vô thủy trước kia là cái thân ánh sáng thong dong không cần ẩm thực ăn uống .Thiết nghĩ những vị đệ tử của đức Phật thời xưa đã có đủ Chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy khi đi theo ngài. Nếu so sánh với những vị ấy, tất cả chúng ta sẽ xét mình là ai, căn nguyên ra sao, có khát khao đi tìm chân lý như họ không, có nhìn đời được như vậy không ? Sau đó, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể xác lập pháp tu thích hợp cho mình .Nếu thấy cõi đời là nơi để tận hưởng, tất cả chúng ta sẽ đi tìm phước báu bằng mọi giá. Phước báu đâu chưa thấy, chưa sờ tới được thì đã phạm nhiều tội ác rồi. Địa ngục chờ sẵn không sai chạy .Và, so với bậc Bồ Tát tái thế, Chánh kiến của những ngài là :
Cõi đời là nơi rất tốt để thực hiện tình thương của mình đối với tha nhân hay các chúng sanh hữu tình khác.
3. Chánh kiến và Tam Vô Lậu học:
Trong Tam Vô Lậu học ( Giới Định Tuệ ), Giới là yếu tố tiên phong và cơ bản để có Định và Tuệ. Giới hoàn toàn có thể được ví như một cái ách tròng vào cổ để nó dẫn dắt mình đi đúng đường. Tuy cốt lõi của việc giữ giới là ở tâm, chứ không phải ở hành vi, nhưng hành vi xấu nào cứ lập đi lập lại mãi không chừa, ắt trở thành thói quen khó chữa, sẽ ăn sâu vào tận trong tâm phủ ( A Lại Da thức ) thành những tập khí sanh tử. Dầu có thông minh mẫn tuệ lúc thức, nhưng trong lúc mê man tàng tịch, ví dụ điển hình như trong giấc mơ hoặc trong trung ấm thân sau khi chết, thói quen nầy sẽ đóng vai trò dữ thế chủ động trong mọi tâm ý và hành vi của tất cả chúng ta. Tôn giả Ưu Ba Ly, một trong 10 vị đại đệ tử của đức Phật, là đệ nhất về giới luật, mà thứ nhất là về uy nghi trong cung cách đi đứng nằm ngồi .Chúng ta không nên coi thường thói quen, vì nó luôn là hành tung của những chủng tử trong A Lại Da thức. Những chủng tử ấy có hoạt tính can đảm và mạnh mẽ hay thui chột đi mất, là do ở tất cả chúng ta nuôi dưỡng kích hoạt nó, hay bỏ bê nó đến chết. Trì giới, ngoài việc giữ cho tâm ý trong sáng, còn tạo ra những thói quen tốt thiết yếu để kềm chế những tập khí sanh tử, khiến chúng khó nổi dậy. Chúng ta không nên coi thường cung cách đi đứng nằm ngồi hoặc nói năng. Tuy chỉ là thói quen, là giới luật của thân thể, nhưng nó quyết định tâm ta khi nào không hay. Thí dụ như người có thói quen nhìn ngó láo liêng như nhìn ngắm đàn bà ví dụ điển hình, là kích hoạt cho cái tâm bất chánh, lâu ngày biến thành tánh dâm khó bỏ. Hoặc người có tính thích cãi cự, khởi đầu chỉ là cãi lại khi nghe người ta nói sai, nhưng sau thì quen dần, bất kể là ai nói đúng hay sai, cũng cố cãi cho được .Có sáng rõ trong cái thấy ( chánh kiến ) thì mới sáng rõ trong cách hành xử ( behaviour )Có sáng rõ trong cách hành xử thì mới sáng rõ trong giấc mơ .Có sáng rõ trong giấc mơ thì mới sáng rõ trong trung ấm thân sau nầy .
Bốn giai đoạn “ Cái thấy, Hành xử, Giấc mơ, Trung ấm” là 4 chặng đường mà hành giả phải trải qua trong quá trình tu tập, nếu muốn được giác ngộ giải thoát. Cái thấy là giai đoạn đầu tiên nên nó hết sức quan trọng. Thí dụ, nếu trong thân trung ấm mà không có chánh kiến, khi thấy các vị thần hung nộ áp đảo dọa giết mà không biết đó là do chính tâm của mình biến hiện ra, hoặc không biết đó là các vị Bồ tát thị hiện để giúp mình thấy tánh của mình, liền sợ hãi co giò bỏ chạy, ắt đọa địa ngục, hoặc là thấy nam nữ giao hợp liền thèm thuồng và ganh tị, đẩy người cha ra để chiếm lấy người mẹ, kết quả là phải nhập thai không trở ra được nữa. Chánh kiến là quan trọng như vậy. Do đó, đức Phật đã đặt Chánh kiến là đề mục thứ nhất trong giáo pháp của ngài về Bát Chánh Đạo ( Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định).
Hiện nay có rất nhiều hành giả về thiền không chịu tìm hiểu và khám phá giáo lý cho cặn kẽ mà nghĩ rằng cứ ngồi thiền miên mật lâu dài hơn thì chánh kiến sẽ tự bật ra. Điều nầy là trọn vẹn sai lầm đáng tiếc, hoặc may ra chỉ hoàn toàn có thể đúng so với những hành giả có chánh kiến nhiều hơn tà kiến. Chánh kiến là trong bước đầu trong Bát Chánh Đạo chứ không phải là bước sau cuối .
Dưới đây chúng ta sẽ bàn đến sự quan trọng của chánh kiến trong tiến trình tu tập Tam Vô Lậu học.
Xem thêm: Chú Chuẩn Đề Mp3 – Chuẩn Đề Phật Mẫu Chú
Đầu tiên là Giới hạnh, câu hỏi được đặt ra là : Người đầy tà kiến có thể giữ giới được hay không ?
Một người Phật tử, bất kể là cư sĩ tại gia hay tu sĩ trong chùa, nếu không có cái nhìn thấy rằng: “Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ” ( Chánh kiến lớn lao và cơ bản nói ở phần trên), khi tiếp cận với luyến ái hay dâm dục, chẳng những không chừa bỏ mà còn ôm thêm vào : “hôm nay hưởng cho đã đi, ngày mai sẽ tu bù lại”, hoặc nếu không tệ hại như vậy thì cũng giữ giới hạnh một cách gượng ép. Tâm họ luôn bị giằng co bởi điều nên làm ( giới luật) và điều mình cảm thấy, chẳng hạn như thấy da thịt thơm tho chứ không thấy gì là bất tịnh khi ý tưởng dâm dục khởi lên. Điều nầy dẫn tới cho họ thất bại trong pháp “Quán thân bất tịnh”. Và, khi ngồi thiền hay đi hành thiền, họ cũng không có được sự toàn tâm, chẳng hạn như khởi lên ý nghĩ “giờ nầy không biết con của mình ở nhà có đói bụng chưa ?” hay “ giờ nầy mình không kiếm ra được đồng nào, trong khi bạn mình đi bán chắc cũng kiếm được khẩm tiền rồi ! ”. Tâm bị chia chẻ làm hai nơi, không có toàn tâm, tức là mất chánh niệm. Ở thầy Tỳ kheo thì hiếm có những ý tưởng na ná như vậy len lỏi trong lúc hành thiền, nhất là thiền ở nơi thâm sơn cùng cốc. Đây là sự khác biệt lớn lao giữa tại gia và xuất gia, hay giữa Ưu Bà Tắc hoặc Ưu Bà Di và Tỳ kheo. Người đời, thấy được sự khác biệt lớn lao nầy mà vẫn tu độc nhất pháp tu của Tỳ Kheo là tự đánh giá cao bản thân mình vậy.
Xem thêm: Bố chồng vừa qua đời, con dâu nửa đêm nghe tiếng đàn ông phát ra từ phòng ngủ của mẹ chồng
Về Định, câu hỏi được đặt ra là: Người đầy tà kiến có thể thiền định được không ?
Theo Kinh Sáu Pháp thuộc Tăng Chi Bộ Kinh: Hội Chúng>
1. – Thật vậy, này những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy ưa thích hội chúng, vui thích hội chúng, chuyên tâm ưa thích hội chúng, ưa thích đồ chúng, vui thích đồ chúng, chuyên tâm ưa thích đồ chúng, vui thích đồ chúng sẽ hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, sự kiện này không xảy ra. Không hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, vị ấy sẽ nắm giữ tướng của tâm, sự kiện này không xảy ra, Không nắm giữ tướng của tâm, sẽ làm cho viên mãn chánh kiến, sự kiện này không xảy ra. Không làm cho viên mãn chánh kiến, sẽ làm cho viên mãn chánh định, sự kiện này không xảy ra. Không làm cho viên mãn chánh định, sẽ từ bỏ những kiết sử, sự kiện này không xảy ra. Không từ bỏ những kiết sử, sẽ chứng ngộ Niết-bàn, sự kiện này không xảy ra.
Source: https://laodongdongnai.vn
Category: Đời Sống