CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH – Tài liệu text

CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.06 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ – LUẬT

ĐỀ TÀI 1
CẤU TRÚC
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Trần Hùng Sơn
Nhóm sinh viên thực hiện : NHÓM 1
Mai Tiến Chung K104050821
Nguyễn Thanh Chương K104050822
Ngô Thị Mỹ Hạnh K104050836
Nguyễn Minh Hạnh K104050837
Trần Tuấn Kiệt K104050854
Lớp : K10405B

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 02 năm 2012.
– 1 –
DANH SÁCH NHÓM 1 – LỚP K10405B
Môn: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
STT Họ và tên các thành viên MSSV
1 MAI TIẾN CHUNG K104050821
2 NGUYỄN THANH CHƯƠNG K104050822
3 NGÔ THỊ MỸ HẠNH K104050836
4 NGUYỄN MINH HẠNH K104050837
5 TRẦN TUẤN KIỆT K104050854
– 2 –
– 3 –
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT NỘI DUNG CÔNG VIỆC
THÀNH VIÊN
THỰC HIỆN

THỜI GIAN
HOÀN THÀNH
GHI CHÚ
1
TÌM VÀ
THAM KHẢO
CÁC TÀI LIỆU
LIÊN QUAN ĐẾN
Khái niệm, chức năng của thị trường
và thị trường tài chính
Chung, Chương
18/02/2012
(Thứ bảy)
Đã hoàn
thành
Các cách phân chia,
cấu trúc thị trường tài chính
Mỹ Hạnh,
Minh Hạnh, Kiệt
2
TỔNG HỢP
NỘI DUNG,
TRÌNH BÀY ĐỀ TÀI
Tổng hợp và trình bày trên word
Mỹ Hạnh,
Kiệt, Chương
20/02/2012
(Chủ nhật)
Họp nhóm
để cùng

góp ý và
Tổng hợp và trình bày trên powerpoint
Minh Hạnh,
Chung
21/02/2012
(Thứ hai)
3
THUYẾT TRÌNH
TRÊN LỚP
GIỚI THIỆU VỀ
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Tiến Chung
23/02/3012
(Thứ tư)
Họp nhóm
để tập
thuyết trình
vào ngày
22/02/2012
(thứ ba)
CẤU
TRÚC
THỊ
TRƯỜNG
TÀI
CHÍNH
Phân loại căn cứ vào kì hạn
luân chuyển vốn
Mỹ Hạnh
Phân loại căn cứ vào tính chất

phát hành các công cụ tài chính
Tuấn Kiệt
Phân loại căn cứ vào cách thức
huy động vốn
Thanh Chương
Phân loại căn cứ vào phương thức
tổ chức và giao dịch của thị trường
Minh Hạnh
– 4 –
MỤC LỤC
1. GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 6
1.1. Khái niệm: Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh tế không chỉ bao gồm
các mối quan hệ cung cầu về hàng hoá mà còn xuất hiện quan hệ cung cầu về tiền
tệ. Quan hệ này xuất hiện tất yếu dẫn đến nhu cầu vận động nguồn vốn từ nơi thừa
đến nơi thiếu, chủ yếu diễn ra trên thị trường tài chính. Nhờ có thị trường tài
chính, mà những người thiếu vốn có thể huy động vốn bằng cách phát hành các
công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu. Những người có vốn dư thừa thay vì
đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng để sản xuất ra hàng hóa, sẽ đầu tư qua
việc mua các tài sản tài chính trên thị trường tài chính do những người có nhu cầu
huy động vốn phát hành. Thuật ngữ “Thị trường tài chính” được sử dụng để phân
biệt thị trường mua bán, giao dịch các loại chứng khoán (tài sản tài chính) với các
thị trường khác (thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động,…) 6
1.2. Chức năng thị trường tài chính: 7
Gồm 5 chức năng: 7
2. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 8
2.1. Căn cứ vào kì hạn luân chuyển vốn gồm có: 8
2.1.1. Thị trường tiền tệ (Money Markets) 8
2.1.2. Thị trường vốn (Capital Markets): 11
2.1.3. Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn: 12
2.2. Căn cứ vào tính chất phát hành của các công cụ tài chính: 13

2.2.1. Thị trường sơ cấp – Thị trường cấp 1 (Primary Markets): 13
2.2.2. Thị trường thứ cấp – Thị trường cấp 2 (Secondary Markets): 15
2.2.3. Mối quan hệ, tác động qua lại giữa hai thị trường: 16
2.3. Căn cứ vào cách thức huy động vốn: 16
2.3.1. Thị trường nợ (Debt Markets): Là thị trường mua bán trao đổi các công cụ nợ trong
đó công cụ nợ là công cụ làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ như trái phiếu tín phiếu hối phiếu,
… 16
2.3.2. Thị trường vốn cổ phần (Equity Markets): Là phương pháp thứ hai để thu hút vốn là
các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của
công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ đi chi phi thuế và thanh
toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ). Cổ đông thường được thanh toán
định kì lãi cổ phần và những cổ phần đó là những chứng khoán dài hạn vì chúng không có
thời gian đáo hạn. 17
2.4. Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường: 17
– 5 –
2.4.1. Thị trường tập trung: 17
2.4.2. Thị trường phi tập trung: 17
3. KẾT LUẬN 19
1. GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm: Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh tế không chỉ bao
gồm các mối quan hệ cung cầu về hàng hoá mà còn xuất hiện quan hệ cung
cầu về tiền tệ. Quan hệ này xuất hiện tất yếu dẫn đến nhu cầu vận động nguồn
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, chủ yếu diễn ra trên thị trường tài chính. Nhờ có
thị trường tài chính, mà những người thiếu vốn có thể huy động vốn bằng cách
phát hành các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu. Những người có vốn
dư thừa thay vì đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng để sản xuất ra hàng
hóa, sẽ đầu tư qua việc mua các tài sản tài chính trên thị trường tài chính do
những người có nhu cầu huy động vốn phát hành. Thuật ngữ “Thị trường tài
chính” được sử dụng để phân biệt thị trường mua bán, giao dịch các loại chứng
khoán (tài sản tài chính) với các thị trường khác (thị trường hàng hoá, thị

trường sức lao động,…)
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng
các khoản vốn (ngắn hoặc dài hạn) thông qua các công cụ tài chính nhất định.
Hoặc thị trường tài chính là nơi di chuyển vốn từ những người có vốn tiết kiệm
nhàn rỗi sang những người có nhu cầu về vốn. Nói cách khác, thị trường tài chính
là nơi trao đổi, mua bán các công cụ hay sản phẩm tài chính.
– 6 –
Công cụ
thị trường tiền tệ
Tín phiếu
kho bạc
Hợp đồng
mua lại CK
Euro – Đô la
Phiếu nợ
Chứng chỉ
tiền gửi
Hối phiếu có NH
chấp thuận
Sơ đồ 1: Các công cụ (sản phẩm) tài chính
1.2. Chức năng thị trường tài chính:
Gồm 5 chức năng:
 Thị trường tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn
vốn từ những người thừa vốn vì họ chi tiêu ít hơn thu nhập tới những người thiếu
vốn vì họ muốn chi tiêu nhiều hơn thu nhập của họ.
Thị trường tài chính gián tiếp
Thị trường tài chính trực tiếp
Sơ đồ 2: Quá trình luân chuyển vốn tài chính
Trong thị trường tài chính trực tiếp các chủ thể có vốn tiết kiệm nhàn rỗi
trực tiếp chuyển vốn cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn bằng cách mua các

– 7 –
Trung gian tài
chính
Vốn
Những người cho
vay – tiết kiệm
+ Hộ gia đình
+ Doanh nghiệp
+ Chính phủ
+ Người nước
ngoài
Vốn
Những người đi
vay – chi tiêu
+ Doanh nghiệp
+ Chính phủ
+ Hộ gia đình
+ Người nước
ngoài
Thị
trường
tài chính
Vốn
Vốn Vốn
tài sản tài chính trực tiếp do các chủ thể có nhu cầu vốn phát hành thông qua các
thị trường tài chính.
Trong thị trường tài chính gián tiếp người cho vay và người đi vay giao
dịch gián tiếp thông qua trung gian tài chính thông thường là các ngân hàng
thương mại, các quỹ tín dụng, …
 Chức năng thứ hai của thị trường tài chính được thể hiện qua việc hình

thành giá của các tài sản tài chính.
 Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là tạo tính thanh khoản cho các
tài sản tài chính.
 Chức năng thứ tư của thị trường tài chính là giảm thiểu chi phí tìm kiếm
và chi phí thông tin cho các bên giao dịch.
 Chức năng thứ năm của thị trường tài chính là ổn định và điều hòa lưu
thông tiền tệ.
Tóm lại, thị trường tài chính nâng cao năng suất hiệu quả của toàn bộ
nền kinh tế. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách
giúp họ chọn thời điểm cho biệc mua sắm của họ tốt hơn. Thị trường tài chính
hoạt động hiệu quả sẽ cải thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội.
2. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Tùy theo các tiêu chí khác nhau người ta có thể phân loại thị trường tài
chính theo một số cách sau đây:
2.1. Căn cứ vào kì hạn luân chuyển vốn gồm có:
2.1.1. Thị trường tiền tệ (Money Markets)
• Khái niệm:
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính trong đó chỉ
mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn (thị trường có thời gian luân chuyển vốn
không quá 1 năm).
Thông thường các chủ thể đi vay trên thị trường này là những chủ thể tạm
thời thiếu hụt tiền tệ phục vụ cho các nhu cầu thanh toán. Do vậy, khi thông qua
các giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn ngắn hạn mà thị trường tiền tệ đã cung
– 8 –
ứng một lượng tiền tệ cho các bên cần vốn nhằm thoả mãn nhu cầu thanh toán
(cũng chính vì lý do này mà nó được gọi là thị trường tiền tệ).
Những chủ thể cung vốn (cho vay) thì lại là những chủ thể tạm thời có
vốn nhàn rỗi (có thể là do chưa dùng tới hoặc đang tìm kiếm cơ hội đầu tư), do
vậy họ tranh thủ chuyển nhượng quyền sử dụng các khoản vốn nhàn rỗi của họ
trong thời gian ngắn để hưởng lãi. Tuy nhiên, vì là đầu tư thời gian ngắn, đầu tư

mang tính nhất thời nên những nhà đầu tư này quan tâm không nhiều tới mức lãi
mà quan tâm hơn tới độ an toàn, tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần.
Các hình thức đầu tư như thế trên thị trường tiền tệ thường có độ an toàn tương đối
cao, nhưng lại thường có mức lợi tức thấp.
Khối lượng và giá trị giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có quy mô
lớn nên bên cho vay thường là các ngân hàng, công ty tài chính hoặc phi tài chính;
còn bên vay vốn thường là Chính phủ, các công ty và ngân hàng.
• Các công cụ tài chính lưu thông trên thị trường tiền tệ hay hàng hóa
của thị trường tiền tệ bao gồm: tín phiếu kho bạc, các loại thương phiếu, kì phiếu,
chứng chỉ gửi tiền, kì phiếu ngân hàng, khế ước cho vay.
• Thị trường tiền tệ có một số đặc trưng sau đây:
(1) Các công cụ thị trường tiền tệ có thời gian đáo hạn trong vòng một
năm nên có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp và hoạt động tương đối ổn định.
(2) Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu là hoạt động tín
dụng, do đó giá cả được hình thành thể hiện thông qua lãi suất tín dụng ngân
hàng.
• Cấu trúc thị trường tiền tệ:
Bao gồm:
+ Thị trường tín dụng;
+ Thị trường liên ngân hàng;
+ Thị trường chứng khoán ngắn hạn;
+ Thị trường ngoại hối.
Trong đó:
– 9 –
+ Thị trường tín dụng bao gồm các hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại gồm có hoạt động huy động vốn và cho vay vốn ngắn hạn.
Gồm có: thị trường chính thức và không chính thức. Thị trường này hoạt
động dựa vào hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức này sẽ
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá nhân bằng hình thức
huy động tiền gửi tiết kiệm và đem cho các tổ chức kinh tế, cá nhân khác vay lại

nếu cần. Ví dụ như thông qua các trung gian tài chính như Ngân hàng thương mại,
Công ty chứng khoán, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Quỹ đầu tư ở nước ta
tồn tại các tổ chức tín dụng như: các Tổ chức Tín dụng Nhà nước, các Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đô thị, các Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn, các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh, các công ty tài chính,
các công ty cho thuê tài chính, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài,
+ Thị trường liên ngân hàng là thị trường hoạt động phục vụ cho các giao
dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả NHTW).
Không phải lúc nào ngân hàng cũng luôn có đủ tiền để cho vay, không
phải lúc nào ngân hàng cũng tìm được khách hàng để cho vay hết khoản tiền mà
mình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu cầu vay và cho vay giữa các ngân hàng nhằm
phục vụ tốt cho hoạt động chính của mình là huy động vốn và cho vay vốn.
+ Thị trường chứng khoán ngắn hạn là nơi thực hiện các giao dịch mua
bán, chuyển nhượng và trao đổi các giấy tờ có giá ngắn hạn như: tín phiếu kho
bạc, kì phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác.
+ Thị trường ngoại hối (Exchange Markets): Thị trường này là nơi diễn ra
các hoạt động giao dịch, mua bán, chuyển nhượng, vay và cho vay bằng ngoại tệ
và các phương tiện thanh toán ghi bằng ngoại tệ.
Các công cụ của thị trường ngoại hối gồm có: hợp đồng giao ngay (Spot),
hợp đồng giao kì hạn (Forward), hợp đồng giao hoán đổi (Swap), các hợp đồng
quyền chọn (Option), … Nhờ công cụ này mà thị trường ngoại hối có thể đáp ứng
– 10 –
nhu cầu ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế, đồng thời tạo cho thị trường ngoại hối
hoạt động ổn định.
Khác với các loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá,
thì trên thị trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệt
nữa của thị trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nào
người dân ở các khu vực khác nhau còn dùng những đồng tiền khác nhau thì thị

trường ngoại hối tồn tại là cần thiết.
2.1.2. Thị trường vốn (Capital Markets):
• Khái niệm:
Là thị trường trao đổi mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn
(thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên).
Thị trường này cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn các doanh
nghiệp, của chính phủ, và các hộ gia đình. Do thời gian luân chuyển vốn trên thị
trường này dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên các công cụ tài chính trên thị
trường vốn có độ rủi ro cao hơn tính thanh khoản kém hơn và đi theo nó là mức lợi
tức kỳ vọng cũng cao hơn.
Thị trường tiền tệ là thị trường được hình thành trước vì ban đầu do kinh
tế chưa phát triển nên nhu cầu vốn và nhu cầu tiết kiệm vốn chưa nhiều chủ yếu là
ngắn hạn. Sau khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn cho
đầu tư xuất hiện thì thị trường vốn ra đời. Bên cạnh việc huy động vốn dài hạn
thông qua các định chế tài chính trung gian thì Chính phủ và các doanh nghiệp còn
tự huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán.
Một khi chứng khoán ra đời thì tất yếu sẽ xuất hiện nhu cầu mua bán
chứng khoán. Chính vì thế mà thị trường chứng khoán ra đời với tư cách là một bộ
phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán.
• Các công cụ của thị trường vốn bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính
phủ, trái phiếu công ty.
• Cấu trúc thị trường vốn:
Bao gồm:
+ Thị trường tín dụng dài hạn;
+ Thị trường chứng khoán.
Trong đó:
– 11 –
+ Thị trường tín dụng dài hạn gồm thị trường cho vay thế chấp và thị
trường cho thuê tài chính.
o Thị trường cho vay thế chấp là thị trường chuyên cho vay các món nợ

dài hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giá
trị của các món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản (nhà, đất, nhà
xưởng, ) nên cần có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp có
thể là những tài sản sẵn có của những người đi vay và kể cả những tài sản được
hình thành từ khoản nợ vay đó.
o Thị trường cho thuê tài chính (tín dụng thuê mua) là hình thức tín
dụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo
yêu cầu của người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuê
là người sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê tài sản
trong một khoảng thời gian đã được thảo thuận trước. Trong suốt thời gian thuê,
người thuê không được quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ hạn. Khi kết thúc
hợp đồng, người thuê có thể chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê như
đã thoả thuận trong hợp đồng.
+ Thị trường chứng khoán: Đây là thị trường được hình thành dùng để
giao dịch mua bán chứng khoán. Gồm bộ phận thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu dài hạn của các công ty.
2.1.3. Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn:
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị
trường tài chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Do đó, các nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và
tác động qua lại.
+ Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và
mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng trả cho
người tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân
hàng để hưởng lãi suất và rủi ro thấp hơn so với việc đầu tư vào chứng khoán. Bên
cạnh đó, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo
các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu
và trái phiếu. Chẳng hạn như, một số chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn
– 12 –
cứ để điều chỉnh lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng. Hay khi định

giá của cổ phiếu hay trái phiếu tại một thời điểm bất kỳ nào đó trên thị trường,
người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên thị trường
tiền tệ. Giữa lãi suất thị trường và giá của trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch:
khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, trái phiếu sẽ sụt giá
và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ xuống hơn lãi trái phiếu.
+ Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng
phản ảnh các hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ.
Đối với thị trường vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định không thăng trầm quá
đáng là cần thiết cho sự ổn định của thị trường.
Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được
thực hiện đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau, tạo
thành cơ cấu hoàn chỉnh của một thị trường tài chính. Những chứng khoán của thị
trường tiền tệ thường có xu hướng mua bán rộng rãi hơn so với những chứng
khoán dài hạn hơn và như vậy có xu hướng lỏng hơn(tính lỏng thêm của những tài
sản taì chính khiến chúng được ưa chuộng hơn và như thế làm dễ dàng hơn chức
năng dẫn vốn và chức năng tiết kiệm của thị trường tài chính). Ngoài ra những
chứng khoán ngắn hạn có dao động giá nhỏ hơn với những chứng khoán dài hạn
khiến cho chúng là những khoản đầu tư an toàn hơn vì vậy các công ty và các
ngân hàng hiện nay dung thị trường này để thu hút lãi từ vốn dư thừa mà họ mong
đợi có được chỉ một cách nhất thời. Các chứng khoán ở thị trường vốn như những
cổ phiếu và trái phiếu dài hạn thường do những người trung gian tài chính như là
các công ty bảo hiểm, và các quỹ trợ cấp nắm giữ những trung gian tài chính này
cũng có chút ít không chắc chắn về các khoản vốn mà họ có thể có trong tương lai.
2.2. Căn cứ vào tính chất phát hành của các công cụ tài chính:
Dựa vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính, người ta chia
thị trường tài chính thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
2.2.1. Thị trường sơ cấp – Thị trường cấp 1 (Primary Markets):
• Khái niệm:
– 13 –
Thị trường sơ cấp là nơi tập trung diễn ra quá trình mua bán lần đầu đối

với các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường
cấp một hay thị trường phát hành Thị trường sơ cấp của chứng khoán là thị trường
mà công chúng không biết rõ bởi vì việc bán của chứng khoán cho người đầu tiên
mua nó diễn ra trong phòng kín
• Đặc điểm:
+ Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho nhà
phát hành. Sau đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán
thứ cấp sẽ không làm ảnh hưởng đến số vốn của nhà phát hành. Cũng từ thị trường
này mà lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
+ Giá của chứng khoán trên thị trường sơ cấp (giá phát hành) do tổ chức
phát hành quy định. Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai
đoạn quan trọng nhất, vì nếu không đạt được kết quả tốt thì chứng khoán phát
hành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải
nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên
thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và người
đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành. Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá chứng khoán ở
thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị danh nghĩa của chứng
khoán.
+ Người bán và người mua trên thị trường sơ cấp
Hoạt động giao dịch ở thị trường này thường được thực hiện theo hình
thức bán buôn giữa nhà phát hành là bên cần huy động vốn (công ty, các tổ chức
tài chính, Chính phủ, ) và các nhà đầu tư lớn (các công ty chứng khoán, ngân
hàng đầu tư, công ty bảo hiểm, …).
Các nhà đầu tư đóng vai trò như nhà bảo lãnh đợt phát hành chứng khoán.
Họ sẽ mua lại toàn bộ số chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận
(thường là thấp hơn mức giá công bố) rồi sau đó tiến hành bán lẻ ra thị trường cho
các nhà đầu tư khác. Các thoả thuận về bảo lãnh chứng khoán thường được tổ
chức riêng, kín nên hoạt động giao dịch cụ thể tại thị trường sơ cấp thương không
công khai.
– 14 –

+ Là thị trường bán buôn chứng khoán, hoạt động không liên tục.
2.2.2. Thị trường thứ cấp – Thị trường cấp 2 (Secondary Markets):
• Khái niệm:
Thị trường thứ cấp, hay còn gọi là thị trường lưu hành chứng khoán, là
thị trường giao dịch các công cụ tài chính sau khi chúng đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường cấp hai. Giao dịch
các chứng khoán đã phát hành cung cấp tính thanh khoản cho các nhà đầu tư mà
trong đó những cổ phiếu phát hành được đem ra mua bán hay như thị trường hối
đoái, thị trường tài chính kì hạn và thị trường chọn lựa. Những ví dụ về thị trường
thứ cấp như Sở giao dịch chứng khoán Mỹ và New York, …
• Đặc điểm:
+ Việc mua đi bán lại chứng khoán trên thị trường thứ cấp chỉ làm thay
đổi quyền sở hữu các chứng khoán chứ không gia tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế
(không trực tiếp mang lại vốn cho nhà phát hành). Hoạt động giao dịch chứng
khoán có thể xác định giá trị thị trường của công ty phát hành ra chứng khoán đó.
Đây là thị trường cạnh tranh tự do.
+ Giá cả của chứng khoán giao dịch do quan hệ cung cầu quyết định.
+ Trên thị trường thứ cấp người mua và người bán là các nhà đầu tư.
+ Là thị trường bán lẻ chứng khoán, hoạt động liên tục.
• Thị trường thứ cấp thực hiện hai chức năng:
(1) Thứ nhất, nó tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính
nhằm thu tiền mặt, tức làm cho các công cụ tài chính này “lỏng” thêm ra. Tính
lỏng thêm khiến cho các công cụ được ưa chuộng hơn và nhờ vậy dễ dàng hơn cho
công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp một.
(2) Thứ hai, nó giúp cho công ty phát hành xác định giá của thị trường sơ
cấp. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường sơ cấp sẽ chỉ thanh toán cho
công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận mua cho
chứng khoán này. Vì vậy, nếu giá chứng khoán ở thị trường thứ cấp càng cao thì
công ty phát hành sẽ nhận được tổng vốn đầu tư càng lớn.
– 15 –

2.2.3. Mối quan hệ, tác động qua lại giữa hai thị trường:
Thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp
hoạt động, nó tạo hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp.
Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có
thể hoạt động một cách trôi chảy được : thị trường thứ cấp sẽ tạo tính lỏng cho các
hàng hoá được cung cấp từ thị trường sơ cấp (qua đó làm tăng tính hấp dẫn và tạo
sự thuận lợi cho các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp); thị
trường thứ cấp cũng góp phần xác định giá các chứng khoán phát hành trên thị
trường sơ cấp.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về
mặt lý thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường chứng khoán chúng ta
không thể chỉ rõ ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi
vì trong hoạt động của thị trường chứng khoán vừa diễn ra việc phát hành chứng
khoán vừa diễn ra việc mua đi bán lại chứng khoán.
2.3. Căn cứ vào cách thức huy động vốn:
Căn cứ vào cách thức huy động vốn, thị trường tài chính được chia thành:
2.3.1. Thị trường nợ (Debt Markets): Là thị trường mua bán trao đổi các
công cụ nợ trong đó công cụ nợ là công cụ làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ
như trái phiếu tín phiếu hối phiếu, …
Phát hành các công cụ nợ là phương pháp thông dụng nhất mà các công
ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính. Đây là dạng thoản thuận theo hợp
đồng, trong đó người vay phải trả cho người nắm giữ các công cụ nợ một khoản
tiền nhất định trong những khoản thời gian đều đặn và giới hạn cố định (vốn và
lãi) vào ngày tháng cụ thể (thời điểm đáo hạn – khi khoản chi trả cuối cùng được
thực hiện ). Trong thời gian đáo hạn của công cụ nợ là khoản thời gian cho đến khi
công cụ nợ hết hạn dựa vào thời gian đáo hạn.
Có 3 công cụ nợ: công cụ nợ ngắn hạn thời gian đáo hạn nhơ hơn 1 năm,
công cụ nợ dài hạn thời gian đáo hạn lớn hơn 10 năm và công cụ nợ trung hạn
thời gian đáo hạn khoảng 1 đến 10 năm.
– 16 –

2.3.2. Thị trường vốn cổ phần (Equity Markets): Là phương pháp thứ hai
để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu
sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ
công ty sau khi trừ đi chi phi thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người
sở hữu công cụ nợ). Cổ đông thường được thanh toán định kì lãi cổ phần và
những cổ phần đó là những chứng khoán dài hạn vì chúng không có thời
gian đáo hạn.
2.4. Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường:
Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường, thị trường
tài chính được chia thành:
2.4.1. Thị trường tập trung:
• Khái niệm:
Là thị trường mà việc giao dịch và mua bán chứng khoán được thực hiện
có tổ chức và thực hiện tại một nơi nhất định.
• Đặc điểm:
+ Thị trường tập trung là các Sở giao dịch (thường được tổ chức dưới
hình thức một công ty cổ phần), ví dụ như: Sở giao dịch chứng khoán New York,
Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, Sở giao dịch chứng khoán LonDon, … Nơi đây
sẽ cung cấp các phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành giao dịch như: lưu
ký chứng khoán, bảng báo giá điện tử, …
+ Hoạt động mua bán chứng khoán tại Sở giao dịch buộc phải thông qua
các trung gian môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán.
+ Ghép lệnh tập trung để hình thành giá giao dịch.
+ Các chứng khoán giao dịch tại thị trường này là những chứng khoán đã
được đăng ký yết giá (niêm yết). Để chứng khoán có thể niêm yết giá thì công ty
phải thỏa mãn các điều kiện về quy mô vốn, số lượng chứng khoán đã phát hành,
về kết quả kinh doanh trong thời gian gần đây… Sau khi được Sở giao dịch chấp
nhận chứng khoán được đăng kí vào danh bạ của Sở giao dịch chứng khoán và
thường xuyên được niêm yết giá trên Sở giao dịch.
2.4.2. Thị trường phi tập trung:

• Khái niệm:
– 17 –
Thị trường phi tập trung là thị trường mà việc mua bán các chứng khoán
được thực hiện phân tán ở những địa điểm khác nhau. Các giao dịch này thường
được thực hiện thông qua mạng máy vi tính.
Trên thế giới thị trường phi tập trung được tổ chức dưới hình thức thị
trường giao dịch “qua quầy” – OTC Market (Over- The- Counter Markets)
• Đặc điểm:
+ Thị trường OTC không phải là thị trường hiện hữu và không có địa
điểm tập trung nhất định. Giao dịch diễn ra tại các quầy thông qua mạng máy vi
tính. Những ai bán hay mua loại chứng khoán nào với mức giá nào đều được hiển
thị hết qua mạng vi tính, do vậy tính cạnh tranh của thị trường này rất cao. Ngoài
ra có thể bán trao tay các chứng khoán (thị trường chợ đen, thị trường tự do).
+ Giá cả trên thị trường này do đó được hình thành theo nguyên tắc
thương lượng thông qua hệ thống thông tin liên lạc hiện đại.
+ Do có tổ chức như vậy nên chứng khoán mua bán tại thị trường OTC
rất đa dạng và đông đảo, nó bao gốm cả các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm
yết giá và chưa muốn yết giá trên Sở giao dịch. Lượng giao dịch và giá trị giao
dịch là lớn hơn nhiều so với mua bán tại Sở giao dịch (theo thống kê của các nước
phát triển).
Ngoài hai hình thức trên : giao dịch tại Sở giao dịch và giao dịch tại thị
trường OTC, trên thị trường tài chính thực tế còn tồn tại một bộ phận các giao
dịch mua bán trực tiếp giữa những người sở hữu chứng khoán. Thị trường này có
thể gọi là thị trường tự do hay thị trường chợ đen. Các thị trường này xuất hiện
đầu tiên trong lịch sử phát triển thị trường tài chính. Tuy nhiên quy mô của chúng
không lớn lắm độ rủi ro lại cao và chỉ có ý nghĩa tại các nước mới hình thành thị
trường tài chính.
– 18 –
3. KẾT LUẬN
Như vậy, thị trường tài chính được chia thành nhiều thị trường khác

nhau tùy theo các tiêu chí như: thời hạn luân chuyển vốn, cách thức huy động vốn,
tính chất phát hành các công cụ tài chính, …. Theo mối tiêu chi, người ta có thể
phân loại thị trường tài chính thành thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường
nợ, thị trường vốn cổ phần hay thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, thị trường
tập trung và phi tập trung. Tuy nhiên, dù được phân chia hay cấu trúc như thế
nào, thị trường tài chính vẫn đóng vai trò là cầu nối giúp cho nguồn vốn vận động
từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, làm cho quá trình lưu chuyển vốn nhanh
chóng, giúp thu hút và huy động các nguồn tài chính nhàn rỗi tạm thời đưa vào
sản xuất kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia thị trường, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Mặt khác, trong thị trường tài chính, vì
người cần vốn phải trả chi phí sử dụng vốn nên phải cân nhắc, lựa chọn các dự án
đem lại hiệu quả cao; và người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẽ có nhiều cơ hội lựa
chọn hình thức và thời điểm đầu tư thích hợp, tất cả đem lại sự nâng cao hiệu quả
của việc sử dụng vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
chính sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ./.
– 19 –
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách chuyên khảo: Tài chính phát triển của GS.TS. Nguyễn Thị Cành
(Chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2011.
2. Sách “Các nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính” của các
tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Luân, Trần Việt Hoàng, Cung Trần Việt,
NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Cuốn “The Economics of Money, Banking and Financial Markets”, 7
th
Edition của Frederic S. Mishkin, Đại học Columbia.
4. Bản dịch “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính” của Nguyễn Quang
Cư và Nguyễn Đức Dy.
5. Tham khảo các trang điện tử:
http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/cau-truc-thi-truong-tai-chinh.508647.html
http://forum.ueh.vn/forum.php

– 20 –
THỜI GIANHOÀN THÀNHGHI CHÚTÌM VÀTHAM KHẢOCÁC TÀI LIỆULIÊN QUAN ĐẾNKhái niệm, tính năng của thị trườngvà thị trường tài chínhChung, Chương18 / 02/2012 ( Thứ bảy ) Đã hoànthànhCác cách phân loại, cấu trúc thị trường tài chínhMỹ Hạnh, Minh Hạnh, KiệtTỔNG HỢPNỘI DUNG, TRÌNH BÀY ĐỀ TÀITổng hợp và trình diễn trên wordMỹ Hạnh, Kiệt, Chương20 / 02/2012 ( Chủ nhật ) Họp nhómđể cùnggóp ý vàTổng hợp và trình diễn trên powerpointMinh Hạnh, Chung21 / 02/2012 ( Thứ hai ) THUYẾT TRÌNHTRÊN LỚPGIỚI THIỆU VỀTHỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNHTiến Chung23 / 02/3012 ( Thứ tư ) Họp nhómđể tậpthuyết trìnhvào ngày22 / 02/2012 ( thứ ba ) CẤUTRÚCTHỊTRƯỜNGTÀICHÍNHPhân loại địa thế căn cứ vào kì hạnluân chuyển vốnMỹ HạnhPhân loại địa thế căn cứ vào tính chấtphát hành những công cụ tài chínhTuấn KiệtPhân loại địa thế căn cứ vào cách thứchuy động vốnThanh ChươngPhân loại địa thế căn cứ vào phương thứctổ chức và thanh toán giao dịch của thị trườngMinh Hạnh – 4 – MỤC LỤC1. GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 61.1. Khái niệm : Trong cơ chế thị trường, hoạt động giải trí kinh tế tài chính không chỉ bao gồmcác mối quan hệ cung và cầu về hàng hoá mà còn Open quan hệ cung và cầu về tiềntệ. Quan hệ này Open tất yếu dẫn đến nhu yếu hoạt động nguồn vốn từ nơi thừađến nơi thiếu, đa phần diễn ra trên thị trường tài chính. Nhờ có thị trường tàichính, mà những người thiếu vốn hoàn toàn có thể kêu gọi vốn bằng cách phát hành cáccông cụ tài chính như CP, trái phiếu. Những người có vốn dư thừa thay vìđầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng để sản xuất ra sản phẩm & hàng hóa, sẽ góp vốn đầu tư quaviệc mua những gia tài tài chính trên thị trường tài chính do những người có nhu cầuhuy động vốn phát hành. Thuật ngữ “ Thị trường tài chính ” được sử dụng để phânbiệt thị trường mua và bán, thanh toán giao dịch những loại sàn chứng khoán ( gia tài tài chính ) với cácthị trường khác ( thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, … ) 61.2. Chức năng thị trường tài chính : 7G ồm 5 công dụng : 72. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 82.1. Căn cứ vào kì hạn luân chuyển vốn gồm có : 82.1.1. Thị trường tiền tệ ( Money Markets ) 82.1.2. Thị trường vốn ( Capital Markets ) : 112.1.3. Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn : 122.2. Căn cứ vào đặc thù phát hành của những công cụ tài chính : 132.2.1. Thị trường sơ cấp – Thị trường cấp 1 ( Primary Markets ) : 132.2.2. Thị trường thứ cấp – Thị trường cấp 2 ( Secondary Markets ) : 152.2.3. Mối quan hệ, tác động ảnh hưởng qua lại giữa hai thị trường : 162.3. Căn cứ vào phương pháp kêu gọi vốn : 162.3.1. Thị trường nợ ( Debt Markets ) : Là thị trường mua và bán trao đổi những công cụ nợ trongđó công cụ nợ là công cụ làm phát sinh nghĩa vụ và trách nhiệm trả nợ như trái phiếu tín phiếu hối phiếu, … 162.3.2. Thị trường vốn CP ( Equity Markets ) : Là chiêu thức thứ hai để lôi cuốn vốn làcác công ty phát hành CP. Người nắm giữ CP chiếm hữu một phần gia tài củacông ty có quyền được chia doanh thu ròng từ công ty sau khi trừ đi chi phi thuế và thanhtoán cho chủ nợ ( những người chiếm hữu công cụ nợ ). Cổ đông thường được thanh toánđịnh kì lãi CP và những CP đó là những sàn chứng khoán dài hạn vì chúng không cóthời gian đáo hạn. 172.4. Căn cứ vào phương pháp tổ chức triển khai và thanh toán giao dịch của thị trường : 17 – 5 – 2.4.1. Thị trường tập trung chuyên sâu : 172.4.2. Thị trường phi tập trung chuyên sâu : 173. KẾT LUẬN 191. GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH1. 1. Khái niệm : Trong cơ chế thị trường, hoạt động giải trí kinh tế tài chính không riêng gì baogồm những mối quan hệ cung và cầu về hàng hoá mà còn Open quan hệ cungcầu về tiền tệ. Quan hệ này Open tất yếu dẫn đến nhu yếu hoạt động nguồnvốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, đa phần diễn ra trên thị trường tài chính. Nhờ cóthị trường tài chính, mà những người thiếu vốn hoàn toàn có thể kêu gọi vốn bằng cáchphát hành những công cụ tài chính như CP, trái phiếu. Những người có vốndư thừa thay vì góp vốn đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng để sản xuất ra hànghóa, sẽ góp vốn đầu tư qua việc mua những gia tài tài chính trên thị trường tài chính donhững người có nhu yếu kêu gọi vốn phát hành. Thuật ngữ “ Thị trường tàichính ” được sử dụng để phân biệt thị trường mua và bán, thanh toán giao dịch những loại chứngkhoán ( gia tài tài chính ) với những thị trường khác ( thị trường hàng hoá, thịtrường sức lao động, … ) Thị trường tài chính là nơi diễn ra những hoạt động giải trí mua và bán quyền sử dụngcác khoản vốn ( ngắn hoặc dài hạn ) trải qua những công cụ tài chính nhất định. Hoặc thị trường tài chính là nơi chuyển dời vốn từ những người có vốn tiết kiệmnhàn rỗi sang những người có nhu yếu về vốn. Nói cách khác, thị trường tài chínhlà nơi trao đổi, mua và bán những công cụ hay mẫu sản phẩm tài chính. – 6 – Công cụthị trường tiền tệTín phiếukho bạcHợp đồngmua lại CKEuro – Đô laPhiếu nợChứng chỉtiền gửiHối phiếu có NHchấp thuậnSơ đồ 1 : Các công cụ ( loại sản phẩm ) tài chính1. 2. Chức năng thị trường tài chính : Gồm 5 tính năng :  Thị trường tài chính thực thi công dụng kinh tế tài chính nòng cốt trong việc dẫnvốn từ những người thừa vốn vì họ tiêu tốn ít hơn thu nhập tới những người thiếuvốn vì họ muốn tiêu tốn nhiều hơn thu nhập của họ. Thị trường tài chính gián tiếpThị trường tài chính trực tiếpSơ đồ 2 : Quá trình luân chuyển vốn tài chínhTrong thị trường tài chính trực tiếp những chủ thể có vốn tiết kiệm ngân sách và chi phí nhàn rỗitrực tiếp chuyển vốn cho những chủ thể có nhu yếu sử dụng vốn bằng cách mua những – 7 – Trung gian tàichínhVốnNhững người chovay – tiết kiệm ngân sách và chi phí + Hộ mái ấm gia đình + Doanh nghiệp + nhà nước + Người nướcngoàiVốnNhững người đivay – tiêu tốn + Doanh nghiệp + nhà nước + Hộ mái ấm gia đình + Người nướcngoàiThịtrườngtài chínhVốnVốn Vốntài sản tài chính trực tiếp do những chủ thể có nhu yếu vốn phát hành trải qua cácthị trường tài chính. Trong thị trường tài chính gián tiếp người cho vay và người đi vay giaodịch gián tiếp trải qua trung gian tài chính thường thì là những ngân hàngthương mại, những quỹ tín dụng, …  Chức năng thứ hai của thị trường tài chính được biểu lộ qua việc hìnhthành giá của những gia tài tài chính.  Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là tạo tính thanh khoản cho cáctài sản tài chính.  Chức năng thứ tư của thị trường tài chính là giảm thiểu ngân sách tìm kiếmvà ngân sách thông tin cho những bên thanh toán giao dịch.  Chức năng thứ năm của thị trường tài chính là không thay đổi và điều hòa lưuthông tiền tệ. Tóm lại, thị trường tài chính nâng cao hiệu suất hiệu suất cao của toàn bộnền kinh tế tài chính. Nó cũng trực tiếp cải tổ mức sống của người tiêu dùng bằng cáchgiúp họ chọn thời gian cho biệc shopping của họ tốt hơn. Thị trường tài chínhhoạt động hiệu suất cao sẽ cải tổ đời sống kinh tế tài chính của mỗi người trong xã hội. 2. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNHTùy theo những tiêu chuẩn khác nhau người ta hoàn toàn có thể phân loại thị trường tàichính theo một số ít cách sau đây : 2.1. Căn cứ vào kì hạn luân chuyển vốn gồm có : 2.1.1. Thị trường tiền tệ ( Money Markets ) • Khái niệm : Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính trong đó chỉmua bán những công cụ tài chính thời gian ngắn ( thị trường có thời hạn luân chuyển vốnkhông quá 1 năm ). Thông thường những chủ thể đi vay trên thị trường này là những chủ thể tạmthời thiếu vắng tiền tệ Giao hàng cho những nhu yếu thanh toán giao dịch. Do vậy, khi thông quacác thanh toán giao dịch mua và bán quyền sử dụng vốn thời gian ngắn mà thị trường tiền tệ đã cung – 8 – ứng một lượng tiền tệ cho những bên cần vốn nhằm mục đích thoả mãn nhu yếu giao dịch thanh toán ( cũng chính vì nguyên do này mà nó được gọi là thị trường tiền tệ ). Những chủ thể cung vốn ( cho vay ) thì lại là những chủ thể trong thời điểm tạm thời cóvốn rảnh rỗi ( hoàn toàn có thể là do chưa dùng tới hoặc đang tìm kiếm thời cơ góp vốn đầu tư ), dovậy họ tranh thủ chuyển nhượng ủy quyền quyền sử dụng những khoản vốn nhàn nhã của họtrong thời hạn ngắn để hưởng lãi. Tuy nhiên, vì là góp vốn đầu tư thời hạn ngắn, đầu tưmang tính nhất thời nên những nhà đầu tư này chăm sóc không nhiều tới mức lãimà chăm sóc hơn tới độ bảo đảm an toàn, tính thanh khoản để hoàn toàn có thể rút vốn ngay khi cần. Các hình thức góp vốn đầu tư như vậy trên thị trường tiền tệ thường có độ bảo đảm an toàn tương đốicao, nhưng lại thường có mức cống phẩm thấp. Khối lượng và giá trị thanh toán giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có quy môlớn nên bên cho vay thường là những ngân hàng nhà nước, công ty tài chính hoặc phi tài chính ; còn bên vay vốn thường là nhà nước, những công ty và ngân hàng nhà nước. • Các công cụ tài chính lưu thông trên thị trường tiền tệ hay hàng hóacủa thị trường tiền tệ gồm có : tín phiếu kho bạc, những loại thương phiếu, kì phiếu, chứng từ gửi tiền, kì phiếu ngân hàng nhà nước, khế ước cho vay. • Thị trường tiền tệ có một số ít đặc trưng sau đây : ( 1 ) Các công cụ thị trường tiền tệ có thời hạn đáo hạn trong vòng mộtnăm nên có tính thanh toán cao, độ rủi ro đáng tiếc thấp và hoạt động giải trí tương đối không thay đổi. ( 2 ) Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra đa phần là hoạt động giải trí tíndụng, do đó Ngân sách chi tiêu được hình thành bộc lộ trải qua lãi suất vay tín dụng thanh toán ngânhàng. • Cấu trúc thị trường tiền tệ : Bao gồm : + Thị trường tín dụng thanh toán ; + Thị trường liên ngân hàng nhà nước ; + Thị trường sàn chứng khoán thời gian ngắn ; + Thị trường ngoại hối. Trong đó : – 9 – + Thị trường tín dụng thanh toán gồm có những hoạt động giải trí tín dụng thanh toán của những ngân hàngthương mại gồm có hoạt động giải trí kêu gọi vốn và cho vay vốn thời gian ngắn. Gồm có : thị trường chính thức và không chính thức. Thị trường này hoạtđộng dựa vào hoạt động giải trí của những tổ chức triển khai tài chính trung gian. Các tổ chức triển khai này sẽhuy động những nguồn vốn thư thả của những tổ chức triển khai kinh tế tài chính, cá thể bằng hình thứchuy động tiền gửi tiết kiệm ngân sách và chi phí và đem cho những tổ chức triển khai kinh tế tài chính, cá thể khác vay lạinếu cần. Ví dụ như trải qua những trung gian tài chính như Ngân hàng thương mại, Công ty sàn chứng khoán, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Quỹ góp vốn đầu tư ở nước tatồn tại những tổ chức triển khai tín dụng thanh toán như : những Tổ chức Tín dụng Nhà nước, những Ngân hàngThương mại Cổ phần Đô thị, những Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn, cácchi nhánh ngân hàng nhà nước quốc tế, những ngân hàng nhà nước liên kết kinh doanh, những công ty tài chính, những công ty cho thuê tài chính, văn phòng đại diện thay mặt ngân hàng nhà nước quốc tế, ngânhàng 100 % vốn góp vốn đầu tư quốc tế, + Thị trường liên ngân hàng nhà nước là thị trường hoạt động giải trí Giao hàng cho những giaodịch về vốn chỉ diễn ra giữa những ngân hàng nhà nước ( kể cả NHTW ). Không phải khi nào ngân hàng nhà nước cũng luôn có đủ tiền để cho vay, khôngphải khi nào ngân hàng nhà nước cũng tìm được người mua để cho vay hết khoản tiền màmình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu yếu vay và cho vay giữa những ngân hàng nhà nước nhằmphục vụ tốt cho hoạt động giải trí chính của mình là kêu gọi vốn và cho vay vốn. + Thị trường sàn chứng khoán thời gian ngắn là nơi thực thi những thanh toán giao dịch muabán, chuyển nhượng ủy quyền và trao đổi những sách vở có giá thời gian ngắn như : tín phiếu khobạc, kì phiếu ngân hàng nhà nước, chứng từ tiền gửi tiết kiệm chi phí và những sách vở có giá ngắnhạn khác. + Thị trường ngoại hối ( Exchange Markets ) : Thị trường này là nơi diễn racác hoạt động giải trí thanh toán giao dịch, mua và bán, chuyển nhượng ủy quyền, vay và cho vay bằng ngoại tệvà những phương tiện đi lại thanh toán giao dịch ghi bằng ngoại tệ. Các công cụ của thị trường ngoại hối gồm có : hợp đồng giao ngay ( Spot ), hợp đồng giao kì hạn ( Forward ), hợp đồng giao hoán đổi ( Swap ), những hợp đồngquyền chọn ( Option ), … Nhờ công cụ này mà thị trường ngoại hối hoàn toàn có thể cung ứng – 10 – nhu yếu ngoại tệ cho những tổ chức triển khai kinh tế tài chính, đồng thời tạo cho thị trường ngoại hốihoạt động không thay đổi. Khác với những loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá, thì trên thị trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệtnữa của thị trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nàongười dân ở những khu vực khác nhau còn dùng những đồng xu tiền khác nhau thì thịtrường ngoại hối sống sót là thiết yếu. 2.1.2. Thị trường vốn ( Capital Markets ) : • Khái niệm : Là thị trường trao đổi mua và bán những công cụ tài chính trung và dài hạn ( thị trường có thời hạn luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên ). Thị trường này cung ứng vốn cho những khoản góp vốn đầu tư dài hạn những doanhnghiệp, của chính phủ nước nhà, và những hộ mái ấm gia đình. Do thời hạn luân chuyển vốn trên thịtrường này dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên những công cụ tài chính trên thịtrường vốn có độ rủi ro đáng tiếc cao hơn tính thanh khoản kém hơn và đi theo nó là mức lợitức kỳ vọng cũng cao hơn. Thị trường tiền tệ là thị trường được hình thành trước vì bắt đầu do kinhtế chưa tăng trưởng nên nhu yếu vốn và nhu yếu tiết kiệm chi phí vốn chưa nhiều hầu hết làngắn hạn. Sau khi nền kinh tế tài chính tăng trưởng, nhu yếu về những nguồn vốn dài hạn chođầu tư Open thì thị trường vốn sinh ra. Bên cạnh việc kêu gọi vốn dài hạnthông qua những định chế tài chính trung gian thì nhà nước và những doanh nghiệp còntự kêu gọi vốn bằng cách phát hành sàn chứng khoán. Một khi sàn chứng khoán sinh ra thì tất yếu sẽ Open nhu yếu mua bánchứng khoán. Chính vì vậy mà kinh doanh thị trường chứng khoán sinh ra với tư cách là một bộphận của thị trường vốn nhằm mục đích cung ứng nhu yếu mua và bán, trao đổi sàn chứng khoán. • Các công cụ của thị trường vốn gồm có : CP, trái phiếu chínhphủ, trái phiếu công ty. • Cấu trúc thị trường vốn : Bao gồm : + Thị trường tín dụng thanh toán dài hạn ; + Thị trường sàn chứng khoán. Trong đó : – 11 – + Thị trường tín dụng thanh toán dài hạn gồm thị trường cho vay thế chấp ngân hàng và thịtrường cho thuê tài chính. o Thị trường cho vay thế chấp ngân hàng là thị trường chuyên cho vay những món nợdài hạn dùng để hỗ trợ vốn mua và bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giátrị của những món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản ( nhà, đất, nhàxưởng, ) nên cần có sự thế chấp gia tài cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp ngân hàng cóthể là những gia tài sẵn có của những người đi vay và kể cả những gia tài đượchình thành từ khoản nợ vay đó. o Thị trường cho thuê tài chính ( tín dụng thanh toán thuê mua ) là hình thức tíndụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua gia tài, thiết bị theoyêu cầu của người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuêlà người sử dụng gia tài và phải thanh toán giao dịch tiền thuê cho người cho thuê tài sảntrong một khoảng chừng thời hạn đã được thảo thuận trước. Trong suốt thời hạn thuê, người thuê không được quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ hạn. Khi kết thúchợp đồng, người thuê hoàn toàn có thể chuyển quyền chiếm hữu, mua lại hoặc liên tục thuê nhưđã thoả thuận trong hợp đồng. + Thị trường sàn chứng khoán : Đây là thị trường được hình thành dùng đểgiao dịch mua và bán sàn chứng khoán. Gồm bộ phận thị trường CP, thị trường tráiphiếu dài hạn của những công ty. 2.1.3. Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn : Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thịtrường tài chính cùng triển khai một công dụng là phân phối vốn cho nền kinh tế tài chính. Do đó, những nhiệm vụ hoạt động giải trí ở trên hai thị trường có mối tương quan bổ trợ vàtác động qua lại. + Lãi suất trên thị trường tiền tệ có tác động ảnh hưởng lớn đến việc phát hành vàmua bán sàn chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất vay của những ngân hàng nhà nước trả chongười tiết kiệm chi phí cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm chi phí thích gửi tiền vào ngânhàng để hưởng lãi suất vay và rủi ro đáng tiếc thấp hơn so với việc góp vốn đầu tư vào sàn chứng khoán. Bêncạnh đó, những đổi khác về Chi tiêu và lãi suất vay trên thị trường tiền tệ thường kéo theocác đổi khác trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung và cầu và giá của cổ phiếuvà trái phiếu. Chẳng hạn như, một số ít sàn chứng khoán dài hạn có lãi suất vay thả nổi, căn – 12 – cứ để kiểm soát và điều chỉnh lãi suất vay là lãi suất vay tiền gửi thời gian ngắn của ngân hàng nhà nước. Hay khi địnhgiá của CP hay trái phiếu tại một thời gian bất kể nào đó trên thị trường, người ta phải tìm hiểu thêm lãi suất vay của ngân hàng nhà nước được hình thành trên thị trườngtiền tệ. Giữa lãi suất vay thị trường và giá của trái phiếu có mối quan hệ tỷ suất nghịch : khi lãi suất vay của ngân hàng nhà nước tăng cao hơn lãi suất vay trái phiếu, trái phiếu sẽ sụt giávà tình hình ngược lại khi lãi suất vay ngân hàng nhà nước hạ xuống hơn lãi trái phiếu. + trái lại, những biến hóa về chỉ số giá CP của thị trường vốn cũngphản ảnh những hiện tượng kỳ lạ tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị trường vốn, việc duy trì một lãi suất vay không thay đổi không thăng trầm quáđáng là thiết yếu cho sự không thay đổi của thị trường. Trên thực tiễn, những hoạt động giải trí của thị trường tiền tệ và thị trường vốn đượcthực hiện đồng nhất xen lẫn nhau, ảnh hưởng tác động và chịu sự ảnh hưởng tác động của nhau, tạothành cơ cấu tổ chức hoàn hảo của một thị trường tài chính. Những sàn chứng khoán của thịtrường tiền tệ thường có khuynh hướng mua và bán thoáng rộng hơn so với những chứngkhoán dài hạn hơn và như vậy có xu thế lỏng hơn ( tính lỏng thêm của những tàisản taì chính khiến chúng được yêu thích hơn và như thế làm thuận tiện hơn chứcnăng dẫn vốn và công dụng tiết kiệm chi phí của thị trường tài chính ). Ngoài ra nhữngchứng khoán thời gian ngắn có giao động giá nhỏ hơn với những sàn chứng khoán dài hạnkhiến cho chúng là những khoản góp vốn đầu tư bảo đảm an toàn hơn thế cho nên những công ty và cácngân hàng lúc bấy giờ dung thị trường này để lôi cuốn lãi từ vốn dư thừa mà họ mongđợi có được chỉ một cách nhất thời. Các sàn chứng khoán ở thị trường vốn như nhữngcổ phiếu và trái phiếu dài hạn thường do những người trung gian tài chính như làcác công ty bảo hiểm, và những quỹ trợ cấp nắm giữ những trung gian tài chính nàycũng có chút ít không chắc như đinh về những khoản vốn mà họ hoàn toàn có thể có trong tương lai. 2.2. Căn cứ vào đặc thù phát hành của những công cụ tài chính : Dựa vào đặc thù của việc phát hành những công cụ tài chính, người ta chiathị trường tài chính thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 2.2.1. Thị trường sơ cấp – Thị trường cấp 1 ( Primary Markets ) : • Khái niệm : – 13 – Thị trường sơ cấp là nơi tập trung chuyên sâu diễn ra quy trình mua và bán lần đầu đốivới những sàn chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trườngcấp một hay thị trường phát hành Thị trường sơ cấp của sàn chứng khoán là thị trườngmà công chúng không biết rõ do tại việc bán của sàn chứng khoán cho người đầu tiênmua nó diễn ra trong phòng kín • Đặc điểm : + Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà sàn chứng khoán đem lại vốn cho nhàphát hành. Sau đó, việc mua và bán những sàn chứng khoán này trên thị trường chứng khoánthứ cấp sẽ không làm tác động ảnh hưởng đến số vốn của nhà phát hành. Cũng từ thị trườngnày mà lượng vốn góp vốn đầu tư cho nền kinh tế tài chính. + Giá của sàn chứng khoán trên thị trường sơ cấp ( giá phát hành ) do tổ chứcphát hành pháp luật. Việc phát hành lần tiên phong sàn chứng khoán ra công chúng là giaiđoạn quan trọng nhất, vì nếu không đạt được hiệu quả tốt thì sàn chứng khoán pháthành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị chức năng phát hành. Không phảinhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện kèm theo để thực thi tốt việc phát hành nên trênthị trường sơ cấp Open một tổ chức triển khai trung gian giữa nhà phát hành và ngườiđầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành. Tuỳ thuộc vào cung và cầu, giá sàn chứng khoán ởthị trường sơ cấp hoàn toàn có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị danh nghĩa của chứngkhoán. + Người bán và người mua trên thị trường sơ cấpHoạt động thanh toán giao dịch ở thị trường này thường được thực thi theo hìnhthức bán sỉ giữa nhà phát hành là bên cần kêu gọi vốn ( công ty, những tổ chứctài chính, nhà nước, ) và những nhà đầu tư lớn ( những công ty sàn chứng khoán, ngânhàng góp vốn đầu tư, công ty bảo hiểm, … ). Các nhà đầu tư đóng vai trò như nhà bảo lãnh đợt phát hành sàn chứng khoán. Họ sẽ mua lại hàng loạt số sàn chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận ( thường là thấp hơn mức giá công bố ) rồi sau đó triển khai kinh doanh nhỏ ra thị trường chocác nhà góp vốn đầu tư khác. Các thoả thuận về bảo lãnh sàn chứng khoán thường được tổchức riêng, kín nên hoạt động giải trí thanh toán giao dịch đơn cử tại thị trường sơ cấp thương khôngcông khai. – 14 – + Là thị trường bán sỉ sàn chứng khoán, hoạt động giải trí không liên tục. 2.2.2. Thị trường thứ cấp – Thị trường cấp 2 ( Secondary Markets ) : • Khái niệm : Thị trường thứ cấp, hay còn gọi là thị trường lưu hành sàn chứng khoán, làthị trường thanh toán giao dịch những công cụ tài chính sau khi chúng đã được phát hành trênthị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường cấp hai. Giao dịchcác sàn chứng khoán đã phát hành phân phối tính thanh toán cho những nhà đầu tư màtrong đó những CP phát hành được đem ra mua và bán hay như thị trường hốiđoái, thị trường tài chính kì hạn và thị trường lựa chọn. Những ví dụ về thị trườngthứ cấp như Sở thanh toán giao dịch sàn chứng khoán Mỹ và Thành Phố New York, … • Đặc điểm : + Việc mua đi bán lại sàn chứng khoán trên thị trường thứ cấp chỉ làm thayđổi quyền sở hữu những sàn chứng khoán chứ không ngày càng tăng vốn góp vốn đầu tư cho nền kinh tế tài chính ( không trực tiếp mang lại vốn cho nhà phát hành ). Hoạt động thanh toán giao dịch chứngkhoán hoàn toàn có thể xác lập giá trị thị trường của công ty phát hành ra sàn chứng khoán đó. Đây là thị trường cạnh tranh đối đầu tự do. + Giá cả của sàn chứng khoán thanh toán giao dịch do quan hệ cung và cầu quyết định hành động. + Trên thị trường thứ cấp người mua và người bán là những nhà đầu tư. + Là thị trường kinh doanh nhỏ sàn chứng khoán, hoạt động giải trí liên tục. • Thị trường thứ cấp triển khai hai tính năng : ( 1 ) Thứ nhất, nó tạo điều kiện kèm theo thuận tiện để bán những công cụ tài chínhnhằm thu tiền mặt, tức làm cho những công cụ tài chính này “ lỏng ” thêm ra. Tínhlỏng thêm khiến cho những công cụ được ưu thích hơn và nhờ vậy thuận tiện hơn chocông ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp một. ( 2 ) Thứ hai, nó giúp cho công ty phát hành xác định giá của thị trường sơcấp. Những hãng mua những sàn chứng khoán ở thị trường sơ cấp sẽ chỉ giao dịch thanh toán chocông ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ đồng ý mua chochứng khoán này. Vì vậy, nếu giá sàn chứng khoán ở thị trường thứ cấp càng cao thìcông ty phát hành sẽ nhận được tổng vốn góp vốn đầu tư càng lớn. – 15 – 2.2.3. Mối quan hệ, tác động ảnh hưởng qua lại giữa hai thị trường : Thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấphoạt động, nó tạo hàng hoá để mua và bán trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó cóthể hoạt động giải trí một cách trôi chảy được : thị trường thứ cấp sẽ tạo tính lỏng cho cáchàng hoá được cung ứng từ thị trường sơ cấp ( qua đó làm tăng tính mê hoặc và tạosự thuận tiện cho những sàn chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp ) ; thịtrường thứ cấp cũng góp thêm phần xác lập giá những sàn chứng khoán phát hành trên thịtrường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa vềmặt triết lý. Trong thực tiễn, hoạt động giải trí của đầu tư và chứng khoán chúng takhông thể chỉ rõ ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởivì trong hoạt động giải trí của đầu tư và chứng khoán vừa diễn ra việc phát hành chứngkhoán vừa diễn ra việc mua đi bán lại sàn chứng khoán. 2.3. Căn cứ vào phương pháp kêu gọi vốn : Căn cứ vào phương pháp kêu gọi vốn, thị trường tài chính được chia thành : 2.3.1. Thị trường nợ ( Debt Markets ) : Là thị trường mua và bán trao đổi cáccông cụ nợ trong đó công cụ nợ là công cụ làm phát sinh nghĩa vụ và trách nhiệm trả nợnhư trái phiếu tín phiếu hối phiếu, … Phát hành những công cụ nợ là chiêu thức thông dụng nhất mà những côngty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính. Đây là dạng thoản thuận theo hợpđồng, trong đó người vay phải trả cho người nắm giữ những công cụ nợ một khoảntiền nhất định trong những khoản thời hạn đều đặn và số lượng giới hạn cố định và thắt chặt ( vốn vàlãi ) vào ngày tháng đơn cử ( thời gian đáo hạn – khi khoản chi trả ở đầu cuối đượcthực hiện ). Trong thời hạn đáo hạn của công cụ nợ là khoản thời hạn cho đến khicông cụ nợ hết hạn dựa vào thời hạn đáo hạn. Có 3 công cụ nợ : công cụ nợ thời gian ngắn thời hạn đáo hạn nhơ hơn 1 năm, công cụ nợ dài hạn thời hạn đáo hạn lớn hơn 10 năm và công cụ nợ trung hạnthời gian đáo hạn khoảng chừng 1 đến 10 năm. – 16 – 2.3.2. Thị trường vốn CP ( Equity Markets ) : Là chiêu thức thứ haiđể lôi cuốn vốn là những công ty phát hành CP. Người nắm giữ cổ phiếusở hữu một phần gia tài của công ty có quyền được chia doanh thu ròng từcông ty sau khi trừ đi chi phi thuế và thanh toán giao dịch cho chủ nợ ( những ngườisở hữu công cụ nợ ). Cổ đông thường được thanh toán giao dịch định kì lãi CP vànhững CP đó là những sàn chứng khoán dài hạn vì chúng không có thờigian đáo hạn. 2.4. Căn cứ vào phương pháp tổ chức triển khai và thanh toán giao dịch của thị trường : Căn cứ vào phương pháp tổ chức triển khai và thanh toán giao dịch của thị trường, thị trườngtài chính được chia thành : 2.4.1. Thị trường tập trung chuyên sâu : • Khái niệm : Là thị trường mà việc thanh toán giao dịch và mua và bán sàn chứng khoán được thực hiệncó tổ chức triển khai và triển khai tại một nơi nhất định. • Đặc điểm : + Thị trường tập trung chuyên sâu là những Sở thanh toán giao dịch ( thường được tổ chức triển khai dướihình thức một công ty CP ), ví dụ như : Sở thanh toán giao dịch sàn chứng khoán Thành Phố New York, Sở thanh toán giao dịch sàn chứng khoán Tokyo, Sở thanh toán giao dịch sàn chứng khoán LonDon, … Nơi đâysẽ cung ứng những phương tiện đi lại và dịch vụ thiết yếu để triển khai thanh toán giao dịch như : lưuký sàn chứng khoán, bảng làm giá điện tử, … + Hoạt động mua và bán sàn chứng khoán tại Sở thanh toán giao dịch buộc phải thông quacác trung gian môi giới gọi là những nhà môi giới sàn chứng khoán. + Ghép lệnh tập trung chuyên sâu để hình thành giá thanh toán giao dịch. + Các sàn chứng khoán thanh toán giao dịch tại thị trường này là những sàn chứng khoán đãđược ĐK yết giá ( niêm yết ). Để sàn chứng khoán hoàn toàn có thể niêm yết giá thì công typhải thỏa mãn nhu cầu những điều kiện kèm theo về quy mô vốn, số lượng sàn chứng khoán đã phát hành, về tác dụng kinh doanh thương mại trong thời hạn gần đây … Sau khi được Sở thanh toán giao dịch chấpnhận sàn chứng khoán được đăng kí vào danh bạ của Sở thanh toán giao dịch sàn chứng khoán vàthường xuyên được niêm yết giá trên Sở thanh toán giao dịch. 2.4.2. Thị trường phi tập trung chuyên sâu : • Khái niệm : – 17 – Thị trường phi tập trung chuyên sâu là thị trường mà việc mua và bán những chứng khoánđược thực thi phân tán ở những khu vực khác nhau. Các thanh toán giao dịch này thườngđược triển khai trải qua mạng máy vi tính. Trên quốc tế thị trường phi tập trung chuyên sâu được tổ chức triển khai dưới hình thức thịtrường thanh toán giao dịch “ qua quầy ” – OTC Market ( Over – The – Counter Markets ) • Đặc điểm : + Thị trường OTC không phải là thị trường hiện hữu và không có địađiểm tập trung chuyên sâu nhất định. Giao dịch diễn ra tại những quầy trải qua mạng máy vitính. Những ai bán hay mua loại sàn chứng khoán nào với mức giá nào đều được hiểnthị hết qua mạng vi tính, do vậy tính cạnh tranh đối đầu của thị trường này rất cao. Ngoàira hoàn toàn có thể bán trao tay những sàn chứng khoán ( thị trường chợ đen, thị trường tự do ). + Giá cả trên thị trường này do đó được hình thành theo nguyên tắcthương lượng trải qua mạng lưới hệ thống thông tin liên lạc tân tiến. + Do có tổ chức triển khai như vậy nên sàn chứng khoán mua và bán tại thị trường OTCrất phong phú và phần đông, nó bao gốm cả những sàn chứng khoán chưa đủ điều kiện kèm theo niêmyết giá và chưa muốn yết giá trên Sở thanh toán giao dịch. Lượng thanh toán giao dịch và giá trị giaodịch là lớn hơn nhiều so với mua và bán tại Sở thanh toán giao dịch ( theo thống kê của những nướcphát triển ). Ngoài hai hình thức trên : thanh toán giao dịch tại Sở thanh toán giao dịch và thanh toán giao dịch tại thịtrường OTC, trên thị trường tài chính trong thực tiễn còn sống sót một bộ phận những giaodịch mua và bán trực tiếp giữa những người sở hữu chứng khoán. Thị trường này cóthể gọi là thị trường tự do hay thị trường chợ đen. Các thị trường này xuất hiệnđầu tiên trong lịch sử vẻ vang tăng trưởng thị trường tài chính. Tuy nhiên quy mô của chúngkhông lớn lắm độ rủi ro đáng tiếc lại cao và chỉ có ý nghĩa tại những nước mới hình thành thịtrường tài chính. – 18 – 3. KẾT LUẬNNhư vậy, thị trường tài chính được chia thành nhiều thị trường khácnhau tùy theo những tiêu chuẩn như : thời hạn luân chuyển vốn, phương pháp kêu gọi vốn, đặc thù phát hành những công cụ tài chính, …. Theo mối tiêu chi, người ta có thểphân loại thị trường tài chính thành thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trườngnợ, thị trường vốn CP hay thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, thị trườngtập trung và phi tập trung chuyên sâu. Tuy nhiên, dù được phân loại hay cấu trúc như thếnào, thị trường tài chính vẫn đóng vai trò là cầu nối giúp cho nguồn vốn vận độngtừ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, làm cho quy trình lưu chuyển vốn nhanhchóng, giúp lôi cuốn và kêu gọi những nguồn tài chính nhàn nhã trong thời điểm tạm thời đưa vàosản xuất kinh doanh thương mại, mang lại quyền lợi cho những chủ thể tham gia thị trường, gópphần thôi thúc tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Mặt khác, trong thị trường tài chính, vìngười cần vốn phải trả ngân sách sử dụng vốn nên phải xem xét, lựa chọn những dự ánđem lại hiệu suất cao cao ; và người có vốn trong thời điểm tạm thời thư thả sẽ có nhiều thời cơ lựachọn hình thức và thời gian góp vốn đầu tư thích hợp, toàn bộ đem lại sự nâng cao hiệu quảcủa việc sử dụng vốn trong nền kinh tế tài chính, tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho việc thực hiệnchính sách Open, cải cách kinh tế tài chính của nhà nước. /. – 19 – TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Sách chuyên khảo : Tài chính tăng trưởng của GS.TS. Nguyễn Thị Cành ( Chủ biên ), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2011.2. Sách “ Các nguyên tắc tiền tệ ngân hàng nhà nước và thị trường tài chính ” của cáctác giả : PGS.TS. Nguyễn Văn Luân, Trần Việt Hoàng, Cung Trần Việt, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Cuốn “ The Economics of Money, Banking and Financial Markets ”, 7 thEdition của Frederic S. Mishkin, Đại học Columbia. 4. Bản dịch “ Tiền tệ, ngân hàng nhà nước và thị trường tài chính ” của Nguyễn QuangCư và Nguyễn Đức Dy. 5. Tham khảo những trang điện tử : http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/cau-truc-thi-truong-tai-chinh.508647.htmlhttp://forum.ueh.vn/forum.php- 20 –